Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

Mathiơ 1:1-17: "SỰ RA ĐỜI VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA JÊSUS, ĐẤNG MÊSI"

(Dịch từ quyển The Preacher's Outline & Sermon Bible, thuộc Leadership Ministries Worldwide
PO Box 21310, Chattanooga, TN 37424-0310, USA).

Mathiơ 1:1-17:
1Gia phổ Đức Chúa Jêsus Christ, con cháu Đa-vít và con cháu Áp-ra-ham. 2Áp-ra-ham sanh Y-sác; Y-sác sanh Gia-cốp; Gia-cốp sanh Giu-đa và anh em người. 3Giu-đa bởi Tha-ma sanh Pha-rê và Xa-ra. Pha-rê sanh Ếch-rôm; Ếch-rôm sanh A-ram; 4A-ram sanh A-mi-na-đáp; A-mi-na-đáp sanh Na-ách-son; Na-ách-son sanh Sanh-môn. 5Sanh-môn bởi Ra-háp sanh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ sanh Ô-bết. Ô-bết sanh Gie-sê; 6Gie-sê sanh vua Đa-vít. Đa-vít bởi vợ của U-ri sanh Sa-lô-môn. 7Sa-lô-môn sanh Rô-bô-am; Rô-bô-am sanh A-bi-gia; A-bi-gia sanh A-sa; 8A-sa sanh Giô-sa-phát; Giô-sa-phát sanh Giô-ram; Giô-ram sanh Ô-xia. 9Ô-xia sanh Giô-tam; Giô-tam sanh A-cha; A-cha sanh Ê-xê-chia. 10Ê-xê-chia sanh Ma-na-sê; Ma-na-sê sanh A-môn; A-môn sanh Giô-si-a. 11Giô-si-a đang khi bị đày qua nước Ba-by-lôn sanh Giê-chô-nia và anh em người. 12Khi đã bị đày qua nước Ba-by-lôn, thì Giê-chô-nia sanh Sa-la-thi-ên; Sa-la-thi-ên sanh Xô-rô-ba-bên; 13Xô-rô-ba-bên sanh A-bi-út; A-bi-út sanh Ê-li-a-kim; Ê-li-a-kim sanh A-xô. 14A-xô sanh Sa-đốc; Sa-đốc sanh A-chim; A-chim sanh Ê-li-út; 15Ê-li-út sanh Ê-lê-a-xa; Ê-lê-a-xa sanh Ma-than; Ma-than sanh Gia-cốp; 16Gia-cốp sanh Giô-sép là chồng Ma-ri; Ma-ri là người sanh Đức Chúa Jêsus, gọi là Christ. 17Như vậy, từ Áp-ra-ham cho đến Đa-vít, hết thảy có mười bốn đời; từ Đa-vít cho đến khi bị đày qua nước Ba-by-lôn, cũng có mười bốn đời; và từ khi bị đày qua nước Ba-by-lôn cho đến Đấng Christ, lại cũng có mười bốn đời.
Bố Cục:
Mathiơ 1:1-17
I. SỰ RA ĐỜI VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA JÊSUS, ĐẤNG MÊSI, 1:1-2:23
A. Bảng gia phổ của Chúa Jêsus: Gốc Rễ, 1:1-17Xem: NC1
(đối chiếu
Luca 3:23-28)
1 Bảng gia phổ chỉ ra Chúa Jêsus là người kế tự hợp pháp (câu 1)
a. Đối với ngai vàng của David (câu 1a)
b. Đối với các ơn phước của Ápraham (câu 1b)
2 Bảng gia phổ khích lệ những tín đồ bị tan rãi khắp nơi (câu 2)
3 Bảng gia phổ tượng trưng cho lòng thương xót vinh hiển của Đức Chúa Trời (các câu 3-6)
a. Nơi người nữ ngoại bang, Tama (các câu 3-4)
b. Nơi người nữ ngoại bang, Raháp (câu 5a)
c. Nơi người nữ ngoại bang, Rutơ (câu 5b)
d. Nơi người đàn bà tội lỗi, Bátsêba (câu 6)
4 Bảng gia phổ tỏ ra ân điển của Đức Chúa Trời không thừa tự được; ân điển ấy được ban ra theo ý muốn của Ngài (các câu 7-10)
5 Bảng gia phổ nhấn mạnh quyền phép của Đức Chúa Trời hay giữ các lời hứa của Ngài (các câu 11-16)
a. Trong sự giải cứu dân sự Ngài ra khỏi thời kỳ hoạn nạn (làm phu tù cho người Babylôn) (các câu 11-15)
b. Trong việc sai phái Đấng Christ, Đấng Mêsi (câu 16)Xem: NC2, Xem: NC3
6 Bảng gia phổ tiêu biểu các thế hệ trong lịch sử thuộc linh (câu 17)
a. Ápraham-David: Ra đời và phát triển (câu 17a)
b. David-Phu tù Babylôn: Thoái hóa và làm nô lệ (câu 17b)
c. Babylôn-Đấng Christ: Tự so và đắc thắng (câu 17c)

MATHIƠ: PHẦN I
I. SỰ RA ĐỜI VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA JÊSUS, ĐẤNG MÊSI, 1:1-2:23
A. Bảng gia phổ của Chúa Jêsus: Gốc Rễ, 1:1-17
(1:1-17) Phần giới thiệu — Gia phổ — Đức Chúa Jêsus Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ không phải là cái nền trơ trụi cho việc giảng dạy đâu. Bảng gia phổ ấy rất phong phú cho người nào chịu tìm kiếm gốc tích của Chúa Jêsus. (Xem chú thích — Luca 3:23).
1. Bảng gia phổ chỉ ra Chúa Jêsus là người kế tự hợp pháp (các câu 1-2).
2. Bảng gia phổ khích lệ những tín đồ bị tan rãi khắp nơi (câu 2).
3. Bảng gia phổ tượng trưng cho lòng thương xót vinh hiển của Đức Chúa Trời (các câu 3-6)
4. Bảng gia phổ tỏ ra ân điển của Đức Chúa Trời không thừa tự được; ân điển ấy được ban ra theo ý muốn của Ngài (các câu 7-10).
5. Bảng gia phổ nhấn mạnh quyền phép của Đức Chúa Trời hay giữ các lời hứa của Ngài (các câu 11-16).
6. Bảng gia phổ tiêu biểu các thế hệ trong lịch sử thuộc linh (câu 17).

NGHIÊN CỨU #1 (1:1-17) Gia phổ: có hai sự kiện quan trọng ở đây. Thứ nhứt, Luca lần theo phổ hệ (gia phổ) của Mary, phổ hệ của mẹ Chúa Jêsus. Thứ hai, ông lần theo phổ hệ của Mary ngược trở lại Ađam. Những điều ông làm cho thấy rằng Con của Đức Chúa Trời hiển nhiên trở thành một con người. Chúa Jêsus là Đấng Mêsi được hứa cho. Luca đang viết cho các dân Ngoại, họ đặt phần nhấn mạnh vào một Đức Chúa Trời siêu việt, một Đức Chúa Trời ở đâu đó ngoài không gian, họ nghĩ Ngài đã bị dời xa khỏi mọi vụ việc của con người. Luca phải chỉ ra Chúa Jêsus là một con người, con người trọn vẹn. Ngài là một con người ra đời bởi một người nữ, đầy đủ tình cảm, cảm xúc và từng ngày kinh nghiệm giống như bao người khác.
Bảng gia phổ của Mathiơ thì khác hẳn (
Mathiơ 1:1). Mathiơ chủ yếu viết cho người Do thái nào đặt phần nhấn mạnh vào phổ hệ thanh sạch. Một phổ hệ bất khiết tước đi khỏi người Do thái lai lịch của mình, tước đi quyền được gọi là một người Do thái; và thê thảm hơn, điều nầy có ý nói người ấy mất quyền được gọi là con cái của Đức Chúa Trời. Để phấn đấu với nan đề nầy, Mathiơ lần theo phổ hệ của Giôsép đi ngược lại qua Vua David và Ápraham, tổ phụ sáng lập ra dân Israel. Ông làm vậy để chỉ ra Chúa Jêsus có quyền hợp pháp đối với ngai vàng của David và với mọi lời hứa được lập với Ápraham. Điều nầy không có ý nói rằng Chúa Jêsus là con theo phần xác của Giôsép, mà thay vì thế là con của Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus đã được sai phái vào trong gia đình của Giôsép. Bởi đó Ngài trở thành người thừa tự hợp pháp của Giôsép (xem NC #3 — Mathiơ 1:16; NC #2 — Giăng 8:23). Điều nầy có ý nói tới hai việc. Thứ nhứt, Chúa Jêsus về mặt luật pháp là dòng dõi thanh sạch của dân Do thái. Ngài làm ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu Ước cho rằng Đấng Mêsi sẽ ra đời từ dân Do thái. Thứ hai, là một người Do thái và là Con của Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus có quyền hợp pháp xưng nhận địa vị Mêsi. Ngài có quyền hợp pháp đối với ngai vàng của David và với mọi lời hứa lập với Ápraham (xem NC #1 — Giăng 4:22; NC #1 — Rôma 4:1-25. Đối chiếu Sáng thế ký 12:1-3).
1. (1:1) Đức Chúa Jêsus Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ chỉ ra rằng Chúa Jêsus là người kế tự hợp pháp ngai vàng của David. Bảng gia phổ (geneseơs) không ghi ra để làm thoả mãn tánh tò mò của con người về gốc tích của Chúa Jêsus, cũng không cung ứng cho các môn đồ Ngài một lý do để khoe khoang về các tổ phụ của Ngài. Sâu xa hơn thế. Mathiơ lần theo gốc rễ của Đức Chúa Jêsus Christ có trình tự để minh chứng rằng Ngài là Đấng Mêsi đã được hứa cho.
Đấng Mêsi cần phải là con của Ápraham và là con của David; nghĩa là, Ngài phải là dòng dõi của cả hai.
1. Đức Chúa Trời ban cho Ápraham và dòng dõi ông (Đấng Mêsi) lời hứa về các ơn phước cho cả thế gian (Sáng thế ký 12:1-3; Sáng thế ký 22:18. Xem chú thích — Giăng 1:23; NC #1 — Giăng 4:22; chú thích — Giăng 8:54-59 để thảo luận).
2. Đức Chúa Trời ban cho David và dòng dõi ông (Đấng Mêsi) lời hứa cai trị đời đời (II Samuên 7:12; Thi thiên 39:3…; Thi thiên 132:11. Xem chú thích — Luca 3:24-31; chú thích — Giăng 1:23; NC #3 — Giăng 1:45; NC #4 — Giăng 1:49 về các câu nói và sự ứng nghiệm).
Người Do thái tin tưởng các lời hứa nầy của Đức Chúa Trời. Vì lẽ đó, Mathiơ ghi ra để minh chứng rằng Chúa Jêsus "được gọi là Đấng Christ" (Mathiơ 1:16) là con được hứa của Ápraham và con được hứa của David (Mathiơ 1:1).
Hãy chú ý thể nào Chúa Jêsus thường được gọi là Con của David. (đối chiếu Mathiơ 12:23; 15:22; 20:30-31; 21:9, 15; Công Vụ các Sứ Đồ 2:29-36; Rôma 1:3; II Timôthê 2:8; Khải huyền 22:16). Đây là tước hiệu và là khái niệm phổ thông nói tới Đấng Mêsi. Hết thế hệ nầy đến thế hệ khác, người Do thái ao ước và tìm kiếm đấng cứu tinh của Israel được hứa cho. Dân sự trông mong Ngài là một vị tướng lãnh tài ba sẽ giải cứu và phục hưng xứ sở đến chỗ cao trọng của nó; thực vậy, họ đã trông mong Ngài biến xứ họ thành trung tâm quyền lực của thế gian. Dưới quyền của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ chinh phục thế gian và tập trung sự vinh hiển và oai nghi của chính mình Đức Chúa Trời tại thành Jerusalem. Từ ngôi của Ngài, ngôi của David, Ngài sẽ giáng "lửa phán xét của Đấng Mêsi" trên các dân các nước thế gian (xem NC #2 — Mathiơ 1:18; NC #2—Mathiơ 3:11; chú thích — Mathiơ 11:1-6; chú thích — Mathiơ 11:2-3; NC #1—Mathiơ 11:5; NC #2 — Mathiơ 11:6; chú thích — Mathiơ 12:16; chú thích — Mathiơ 22:42; chú thích — Luca 7:21-23. Khi để ý tới các chỗ chú thích nầy sẽ thấy rõ những gì quan niệm của người Do thái nghĩ về Đấng Mêsi). Nếu Mathiơ có thể minh chứng gốc rễ của Chúa Jêsus ngược về với David và Ápraham, ông sẽ tỏ ra con người dám nắm lấy những lời xưng nhận của Chúa Jêsus là Đấng Mêsi nghiêm trọng là dường nào. (Xem chú thích — Mathiơ 1:18).
Tư tưởng 1. Người tin Chúa sẽ dự phần vào các ơn phước của Ápraham và trong David được hứa cho sự trị vì đời đời. (Xem NC #1—Rôma 4:1-25).
“Vậy, người đã nhận lấy dấu cắt bì, như dấu ấn của sự công bình mà người đã được bởi đức tin, khi chưa chịu cắt bì; hầu cho làm cha hết thảy những kẻ tin mà không chịu cắt bì, đặng họ được kể là công bình” (Rôma 4:11).
“Vậy nên, bởi đức tin mà người ta trở nên kẻ ăn gia tài, hầu cho sự ấy được bởi ân điển, và cho lời hứa được chắc chắn cho cả dòng dõi Áp-ra-ham, chẳng những cho dòng dõi dưới quyền luật pháp, mà cũng cho dòng dõi có đức tin của Áp-ra-ham, là tổ phụ hết thảy chúng ta” (Rôma 4:16).
“Ta đã lập giao ước cùng kẻ được chọn của ta, Ta đã thề cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, mà rằng: Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến mãi mãi, Và dựng ngôi ngươi lên cho vững bền đến đời đời” (Thi thiên 89:3-4).
“Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an. Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt sắng của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ làm nên sự ấy!” (Êsai 9:5-6).
“Xảy ra trong ngày đó, rễ Y-sai đứng lên làm cờ cho muôn dân, các nước đều tìm đến Ngài, nơi an nghỉ của Ngài sẽ được vinh hiển” (Êsai 11:10).
“Đấng Christ đã chết và sống lại, ấy là để làm Chúa kẻ chết và kẻ sống” (Rôma 14:9).
“lại soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, và biết quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình, mà Ngài đã tỏ ra trong Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời nầy, mà cũng trong đời hầu đến nữa. Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu Hội thánh” (Êphêsô 1:18-22).
Tư tưởng 2: "Đức Chúa Jêsus, gọi là Christ" (Mathiơ 1:16) hiển nhiên đã đến qua phổ hệ của Ápraham và David. Ai nấy phải ngồi thẳng lên rồi long trọng xưng nhận như thế. Bản thân Ngài đã đưa ra lời xưng nhận về địa vị Mêsi và Ngài có nhiều thế hệ con người làm chứng cho sự thực họ đã kinh nghiệm sự hiện diện và quyền phép của Ngài trong vai trò Đấng Mêsi. Mathiơ đã khởi sự làm chứng và có hàng ngàn người noi theo. Nếu Đấng Christ và các môn đồ Ngài đang nói ra sự thực, thì thế gian đang phạm vào một sai lầm trong sự nó chối bỏ Đấng Christ.
“Đức Chúa Jêsus đứng trước quan tổng đốc, quan hỏi rằng: Có phải ngươi là Vua của dân Giu-đa không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời” (Mathiơ 27:11).
“Đức Chúa Jêsus đáp lại rằng: Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc về thế gian nầy, thì tôi tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta khỏi phải nộp cho dân Giu-đa; nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới. Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời, ta là vua. Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: ấy là để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta” (Giăng 18:36-37).
2. (1:2) Đức Chúa Jêsus Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ khích lệ các tín hữu bị tan rãi. Giữa vòng các con trai của Giacốp, chỉ có Giuđa là tổ phụ của Đấng Christ. Thế thì tại sao mười một anh em của ông, tất cả các con trai của Giacốp, lại được liệt kê ra trong bảng gia phổ? Có lẽ chỉ có một lý do mà thôi. Từng người Do thái đều biết rõ Ngài đã đến qua dòng dõi của Giacốp; từng người Do thái là một dòng dõi của một trong các con trai của Giacốp. Trong thời điểm Mathiơ viết, Rome đã thống trị thế gian. Rome, giống như người Babylôn, đã tan rãi người Do thái trên khắp thế giới. Mathiơ ước ao khích lệ tất cả người Do thái — khích lệ họ bằng cách đoan chắc với họ rằng họ là dòng dõi của các con trai Giacốp và vì thế họ có phần trong Đấng Christ, là Đấng Mêsi chơn thật. Hết thảy họ đều ở trong phổ hệ tiếp nhận mọi lời hứa lập với Ápraham và dòng dõi của ông sẽ được nhóm lại với nhau dưới đời trị vì của dòng dõi David. (Xem NC #2—Mathiơ 1:18. Đây là ghi chú quan trọng để nhìn thấy quan điểm nầy rõ ràng hơn).
Tư tưởng 1: Các tín hữu đôi khi cảm thấy mình bị tan rãi khắp nơi: cô đơn, một mình, thất vọng, bị lấn lướt, không mục đích, vô nghĩa, hay không quan trọng trong cuộc sống. Họ cảm thấy giống như thể họ đang ở trong một con đường mòn — không biết đi tới đâu. Họ cảm thấy Đức Chúa Trời ở đâu đó xa lắc xa lơ, không thể đến gần được. Họ lấy làm lạ không biết tại sao Đức Chúa Trời không đáp lời và làm thỏa mãn nhu cần của họ. Mathiơ đang nói với mọi người: từng tín đồ đang ở trong phổ hệ tiếp nhận lời hứa của Đức Chúa Trời lập với Ápraham và với David (xem chú thích — Mathiơ 1:1; chú thích — Mathiơ 1:3-6). Đức Chúa Trời làm thỏa mãn nhu cần của tín đồ trong Đấng Christ và sẽ làm ứng nghiệm mọi lời hứa của Ngài ở trong Ngài.
“và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản tánh Đức Chúa Trời” (II Phierơ 1:4).
“Lời hứa mà chính Ngài đã hứa cùng chúng ta, ấy là sự sống đời đời” (I Giăng 2:25).
“Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài” (Rôma 8:16-17).
“hầu cho chúng ta nhờ ơn Ngài được xưng công bình, trở nên con kế tự của Ngài trong sự trông cậy của sự sống đời đời” (Tít 3:7).


3. (1:3-6) Sự thương xót: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ làm biểu tượng cho ơn thương xót vinh hiển của Đức Chúa Trời. Thật là bất thường khi tìm thấy tên của những phụ nữ trong bảng gia phổ. Họ được liệt kê ra trong phổ hệ của Chúa Jêsus như một dấu chỉ về ơn thương xót của Đức Chúa Trời.
1. Tama là một kẻ cám dỗ và là một người tà dâm, Đức Chúa Trời đã chìa tay ra với nàng (Sáng thế ký 38:24…).
2. Raháp là một dân Ngoại bị người Do thái chối bỏ. Nàng là một kỵ nữ được cứu ra khỏi sự phán xét vì nàng đã luyện tập đức tin nơi Đức Chúa Trời và nơi Israel là dân sự của Ngài (Giôsuê 2:1…).
3. Rutơ là một công dân của một nước bị dân Do thái thù ghét, nhưng nàng là một phụ nữ được chọn để kết hiệp với Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài (Rutơ 1…).
4. Bátsêba đã phạm tội hiển nhiên với David, nhưng bà đã tìm kiếm ơn tha thứ của Đức Chúa Trời cùng với David (II Samuên 11-12).
Tư tưởng 1: Chẳng có một ngăn trở nào đối với sự thương xót của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ giáng ơn thương xót trên bất cứ ai — bất luận phái tính, quốc tịch, hay tội lỗi nào. Hãy nhìn vào bốn phụ nữ được liệt kê trong hàng tổ phụ của Đấng Christ xem. Ơn thương xót của Đức Chúa Trời thật kỳ diệu là dường nào!
Tư tưởng 2: Có một hình ảnh rất đẹp trong bốn người đàn bà được liệt kê ra trong gốc tích của Chúa Jêsus, một bức tranh đẹp nói tới Tin Lành của Đấng Christ: tội lỗi của họ được tha thứ và họ đã được chính Đức Chúa Trời tiếp nhận.
“đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung tức là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch. Chúng ta hết thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh nộ, cũng như mọi người khác. Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ, ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu” (Êphêsô 2:3-5).
“Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội, theo sự dư dật của ân điển Ngài” (Êphêsô 1:7).
“không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh” (Tít 3:5).


4. (1:7-10) Đức Chúa Jêsus Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ tỏ ra ân điển của Đức Chúa Trời con người không thừa tự được; ân ấy được ban ra theo ý muốn của Ngài. Có cả hai: các vua nhơn đức và gian ác trong hàng tổ phụ của Đấng Christ. Chỉ vì một vì vua nhơn đức không có nghĩa là điều thiện của vua ấy sẽ được kế tự bởi vị vua kế đó.
1. Các vua nhơn đức được ghi ra ở Mathiơ 1:7-8 là:
 Salômôn (I Các Vua 1:1-11:43).
 Asa (I Các Vua 15:9-24; II Sử ký 14-16).
 Giôsaphát (hay Giôhôsaphát, II Sử ký 17-20).
2. Các vua gian ác là:
 Rôbôam (hay Rêhôbôam I Các Vua 11:43…).
 Abia (hay Abigia, II Sử ký 12:16…).
 Giôram (hay Giêhôram, II Các Vua 8:21-24; I Sử ký 3:11).
Tư tưởng 1: Sự tin kính và sự công bình người ta không thể thừa tự được. Không phải vị vua nầy sẽ chuyển giao bổn tánh của mình cho vị vua kế tiếp đâu. Từng hữu thể con người sẽ đứng như một cá nhân trước mặt Đức Chúa Trời và chịu trách nhiệm cho đời sống và cách ăn ở của chính mình (Giăng 1:12-13). Một người có thể có bố mẹ tin kính và một gia đình tin kính, song sự tin kính không được chuyển giao từ người nầy sang người kia. Một người phải đối diện với Đức Chúa Jêsus Christ vì bản thân mình.


“Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Ap-ra-ham là tổ chúng ta; và ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con cái cho Ap-ra-ham được” (Mathiơ 3:8-9)
“Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Giăng 1:12-13).

5. (1:11-16) Phu tù cho Babylôn: bảng gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ nhấn mạnh quyền phép của Đức Chúa Trời hay giữ mọi lời hứa của Ngài. Quyền phép của Đức Chúa Trời được thấy trong các biến cố đặc biệt.
1. Quyền phép của Đức Chúa Trời được thấy trong sự giải cứu dân sự Ngài qua những thời điểm kinh khiếp (thí dụ, cuộc phu tù cho Babylôn). Tại sao cuộc phu tù ở Babylôn lại nổi bật lên trong bảng gia phổ của Đấng Christ (Mathiơ 1:11-12, 17)? Mathiơ muốn nhấn mạnh một sự kiện quan trọng. Một mình Đức Chúa Trời có thể cứu một dân tộc qua một thử thách nghiêm trọng như thế. Người Babylôn đã bắt dân của các nước họ chinh phục rồi tan rãi họ ra trên khắp thế giới. Qua những cách thức như thế, họ đã hủy diệt và chinh phục các nước. Nhiều thế hệ nối tiếp đã quên bẳng đi lai lịch của họ, quên đi lòng trung thành với quê hương cũ rồi tự gắn mình với xứ sở hiện tại. Song chẳng phải như thế với dân Israel; Mathiơ đang nói rằng Đức Chúa Trời đã bảo tồn dân Do thái qua tình trạng bất khả thi — một nổ lực xác định họ là một dân. Và Đức Chúa Trời đã làm việc ấy để bảo tồn phổ hệ của Đấng Mêsi giờ đây đã hiện đến (đối chiếu Êsai 45:8-9).
2. Quyền phép của Đức Chúa Trời được thấy trong việc sai phái Đấng Christ, là Đấng Mêsi (xem NC #3 — Mathiơ 1:16; NC #2 — Mathiơ 1:18).
Tư tưởng 1: Đây là một sự kiện lịch sử, Đức Chúa Trời đã bảo tồn dân Do thái qua từng nổ lực để nhận dạng họ. Bởi quyền phép ấy, Ngài đã làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài để sai Con của Ngài đến qua dòng dõi của Ápraham và David. Từng người sẽ nhìn thấy rõ cả hai: một lời cảnh cáo và một hy vọng.
Tư tưởng 2: Đức Chúa Trời đã bảo tồn dân Do thái qua cuộc phu tù cho người Babylôn; Ngài đã giữ lời hứa của Ngài khi sai phái Đấng Mêsi. Người tín đồ có thể yên nghỉ chắc chắn nơi các lời hứa và quyền phép của Đức Chúa Trời, vì Ngài sẽ làm ứng nghiệm mọi lời hứa của Ngài. Thế gian có thể thắng hơn: thất vọng, buồn rầu, ngã lòng, trống vắng, cô độc, và thiếu mục đích sẽ bị chinh phục. Có đắc thắng chắc chắn trong mọi lời hứa của Ngài.
“Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (I Côrinhtô 10:13).
“Vì chưng cũng như các lời hứa của Đức Chúa Trời đều là phải trong Ngài cả, ấy cũng bởi Ngài mà chúng tôi nói "A-men," làm sáng danh Đức Chúa Trời. Vả, Đấng làm cho bền vững chúng tôi với anh em trong Đấng Christ, và đã xức dầu cho chúng tôi, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài cũng lấy ấn mình mà đóng cho chúng tôi và ban của tin Đức Thánh Linh trong lòng chúng tôi” (II Côrinhtô 1:20-22).
“Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên” (II Côrinhtô 4:17).
“vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta. Ai là người thắng hơn thế gian, há chẳng phải kẻ tin Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời hay sao?” (I Giăng 5:4-5).
Tư tưởng 3: Đã nhiều thế kỷ qua trước khi Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài sai phái một Cứu Chúa đến với thế gian. Nhiều người đã thất vọng; nhiều người khác đã quên bẳng đi niềm tin. Có một số người đã đi xa hơn, họ chế giễu và bắt bớ những ai vẫn còn tin theo. Nhưng "khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài...." (Galati 4:4). Có phần ứng dụng ở đây cho lần đến thứ hai của Đấng Christ: "trong những ngày sau rốt, sẽ có mấy kẻ hay gièm chê, dùng lời giễu cợt... nói rằng: Chớ nào lời hứa về sự Chúa đến ở đâu...?" (Đối chiếu II Phierơ 3:3-18).
NGHIÊN CỨU #2 (1:16) Đấng Christ — Đấng Mêsi: từ ngữ nói tới "Christ""Mêsi" là cùng một từ: christos. Mêsi là từ Hybálai và Christ là từ Hylạp. Cả hai từ đều nói tới cùng một Thân Vị: Đấng Chịu Xức Dầu. Đấng Mêsi là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời. Mathiơ nói rằng Chúa Jêsus "được gọi là Christ" (Mathiơ 1:16); nghĩa là, Ngài được công nhận là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời, chính mình Đấng Mêsi.
Trong thời của Đức Chúa Jêsus Christ, dân sự đều ao ước sự đến của Đấng Mêsi được hứa từ lâu. Gánh nặng của cuộc sống rất khắc nghiệt, khó nhọc, và không sáng sủa chi hết. Dưới thời Lamã, dân sự cảm thấy rằng Đức Chúa Trời không thể chờ đợi thêm được nữa khi muốn làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài. Những ước ao như thế về sự giải cứu đã khiến cho dân sự ra cả tin. Nhiều người chổi dậy xưng mình là Đấng Mêsi và dẫn các môn đồ cả tin ấy vào sự loạn nghịch chống lại chính quyền Lamã. Baraba, là kẻ nổi loạn, hắn được tha tự do thay chỗ của Chúa Jêsus trong cuộc xét xử Chúa Jêsus, là một thí dụ (
Mác 15:6…). (Xem chú thích — Mathiơ 1:1; NC #2—Mathiơ 3:11; chú thích —Mathiơ 11:1-6; chú thích — Mathiơ 11:2-3; NC #1 — Mathiơ 11:5; NC #2 — Mathiơ 11:6; NC #1 — Mathiơ 12:16; chú thích — Mathiơ 22:42; chú thích — Luca 7:21-23).
Đấng Mêsi được suy nghĩ theo một số việc:
1. Về mặt dân tộc, Ngài phải là lãnh tụ ra từ dòng dõi của David, Ngài sẽ đặt ra thể chế Do thái rồi lập thành một nước độc lập, lãnh đạo nước ấy trở thành một nước lỗi lạc nhất mà thế gian từng nhìn biết.
2. Về mặt quân sự, Ngài cần phải trở thành một lãnh đạo quân sự tài ba, Ngài sẽ lãnh đạo các đội quân Do thái chiến thắng trên khắp thế gian.
3. Về mặt tôn giáo, Ngài cần phải trở thành một nhân vật siêu nhiên ra từ Đức Chúa Trời, Ngài sẽ lập sự công bình trên toàn cầu.
4. Về mặt cá nhân, Ngài phải là Đấng sẽ mang lại sự hoà bình cho khắp thế giới.
Đức Chúa Jêsus Christ đã chấp nhận tước hiệu Mêsi trong ba trường hợp khác nhau (
Mathiơ 16:17; Mác 14:61; Giăng 4:26). Danh Jêsus tỏ ra Ngài là một con người. Danh xưng Christ tỏ ra Ngài là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời, là chính Con độc sanh của Đức Chúa Trời. Christ là tước hiệu của Chúa Jêsus. Danh ấy xác định Ngài chính thức là:
 Tiên tri (
Phục truyền luật lệ ký 18:15-19. Xem chú thích — Luca 3:38 tìm những câu Kinh thánh và sự ứng nghiệm).
 Thầy tế lễ (
Thi thiên 110:4. Xem NC #1 — Luca 3:32-38 tìm những câu Kinh thánh và sự ứng nghiệm).
 Vua (
II Samuên 7:12-13. Xem chú thích — Luca 3:24-31 tìm những câu Kinh thánh và sự ứng nghiệm).
Các chức sắc nầy luôn luôn được xức với dầu, một biểu tượng nói tới Đức Thánh Linh, Ngài phải xức dầu hoàn toàn cho Đấng Christ, là Đấng Mêsi (
Mathiơ 3:16; Mác 1:10-11; Luca 3:21-22; Giăng 1:32-33).
NGHIÊN CỨU
#3 (1:16) Sự ra đời của Chúa Jêsus — Con của Đức Chúa Trời: hãy chú ý từ ngữ được thay đổi "sanh". Chúa Jêsus được Mary sanh ra chớ không phải do Giôsép. Giôsép là chồng của Mary, nhưng Chúa Jêsus không do Giôsép sanh ra. Ngài được Đức Thánh Linh sanh ra qua Mary.
Điều nầy nhấn mạnh một sự kiện quan trọng: Chúa Jêsus không ra đời từ một con người, mà là do Đức Thánh Linh (xem chú thích 1 —
Mathiơ 1:18; NC #8 — Mathiơ 1:23; NC #9 — Mathiơ 1:23). Ngài là Trời, tuy nhiên là người qua sự thai dựng trong Mary. Ngài là Người-Trời, là Đức Chúa Trời trọn vẹn — con người trọn vẹn. Ý nghĩa thực của điều nầy, ấy là Đức Chúa Trời, Ngài có khả năng không phạm tội. Không một người nào khác kể từ Ađam có được khả năng nầy, vì những người nam khác đều có một người cha và một người mẹ con người, một người cha và một người mẹ đã bị nhiễm với bản chất tội lỗi của con người. Vì lẽ đó, con cái của một người được sanh ra với cùng một bổn tánh, một bổn tánh không khác chi hơn là phạm tội. Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus Christ, là Con độc sanh của Đức Chúa Trời do Đức Thánh Linh sanh ra, đã có khả năng sống một đời sống trọn vẹn và công bình. Ngài có khả năng không bao giờ phạm tội.
Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus Christ, là người, cũng có khả năng phạm tội. Ngài đã gánh chịu mọi thử thách và cám dỗ y như bao người khác phải chịu. Ngài có thể cố ý phạm tội. (Xem chú thích —
Giăng 6:38 để thảo luận thêm).
Nhưng có sự khác biệt vinh hiển nầy. Ngài sử dụng khả năng không bao giờ phạm tội. Ngài đã học tập vâng lời bởi những việc mà Ngài đã gánh chịu (
Hêbơrơ 5:8). Ngài không hề nhượng bộ đối với sự cám dỗ; Ngài không hề phạm tội (II Côrinhtô 5:21). Nhơn đó Ngài trở thành Con Người Trọn Vẹn Và Lý Tưởng, nơi Ngài mọi người đều tìm được ơn cứu rỗi của họ (xem NC #3 — Mathiơ 8:20; NC #2 — Giăng 8:23). (Xem NC #8 — Mathiơ 1:23).

6. (1:17) Lịch sử thuộc linh: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ làm biểu tượng cho các thế hệ thuộc lịch sử thuộc linh.
 Thời kỳ thứ nhứt trong lịch sử của Israel có thể làm biểu tượng cho Đức Chúa Trời cung ứng sự ra đời cho Israel qua Ápraham và cung ứng quyền thống trị qua David.
 Thời kỳ thứ hai có thể làm biểu tượng cho Israel mất đi quyền thống trị của nó và bị bắt làm nô lệ như một kết quả của sự Đức Chúa Trời phán xét đối với tội lỗi.
 Thời kỳ thứ ba trong lịch sử Israel có thể làm biểu tượng cho sự đắc thắng tối hậu của Israel qua Đấng Mêsi và quyền phép giải phóng của Ngài.

Những thời kỳ lịch sử nầy cũng có thể làm biểu tượng cho chuyến hành trình thuộc linh của bất kỳ người nào đã được cứu.
1. Con người ra đời và có ý định trị vì giống như Vua.

"Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ" (Sáng thế ký 1:26-27).
"Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, Khiến muôn vật phục dưới chân người" (
Thi thiên 8:6).

2. Tuy nhiên, con người mất đi quyền cai trị của mình qua sự làm nô lệ cho tội lỗi và sự phán xét của Đức Chúa Trời.

"Ngài phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi. Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi" (Sáng thế ký 3:16-19).
"vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" (
Rôma 3:23).
"Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội" (
Rôma 5:12).

3. Giờ đây, con người có thể được giải phóng và được phục hồi để làm ứng nghiệm mục đích nguyên thủy của Ngài qua Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Mêsi.

"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời" (Giăng 3:16).
"Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết. Huống chi nay chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình, thì sẽ nhờ Ngài được cứu khỏi cơn thạnh nộ là dường nào! Vì nếu khi chúng ta còn là thù nghịch cùng Đức Chúa Trời, mà đã được hòa thuận với Ngài bởi sự chết của Con Ngài, thì huống chi nay đã hòa thuận rồi, chúng ta sẽ nhờ sự sống của Con ấy mà được cứu là dường nào!" (
Rôma 5:8-10).
"Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài. Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta" (
Rôma 8:15-18).

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2011

Sáng Thế Ký 1:1-2: "SỰ DỰNG NÊN TRỜI VÀ ĐẤT"

Sáng thế ký – Chương 1
(Dịch từ quyển The Preacher's Outline & Sermon Bible, thuộc Leadership Ministries Worldwide
PO Box 21310, Chattanooga, TN 37424-0310, USA).
Sáng thế ký 1:1-2: “1Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. 2Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước”.
Bố cục:
I. SỰ DỰNG NÊN TRỜI VÀ ĐẤT, 1:1-2:3Xem: NC1
A. Những thắc mắc cơ bản về sự sáng tạo, 1:1-2
1 Khi nào: Ban đầu (câu 1a)
2 Ai dựng nên: Đức Chúa Trời (câu 1b) Xem: NC2
3 Sự việc: Trời và đất (câu 1c) Xem: NC3
4 Đất được dựng nên như thế nào: Các giai đoạn (câu 2) Xem: NC4
a. Vô hình và trống không (câu 2a)
b. Mờ tối (câu 2b)
c. Có nước bao phủ (câu 2c)
d. Do hoạt động của Đức Thánh Linh (câu 2d)
SÁNG THẾ KÝ: PHẦN 1
SỰ DỰNG NÊN TRỜI VÀ ĐẤT (1:1 – 2:3)
A. Những thắc mắc cơ bản về sự sáng tạo, 1:1-2
Phần giới thiệu — Sự sáng tạo (1:1-2): Lời mở đầu trang trọng, rất ấn tượng, đẹp đẽ của Kinh thánh rất đáng kinh ngạc.
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1)
Một người đọc và suy nghĩ – suy nghĩ cách chơn thật – về câu nói quan trọng nầy sẽ thấy lôi cuốn ngay bởi lời công bố đáng kinh ngạc của nó. Tại sao chứ? Bởi vì người ấy nhận ra các thắc mắc cơ bản về sự sáng tạo được gói ghém trong lời phát biểu thiêng liêng đó. Có nhiều điều để nói, nhiều thứ phải suy gẫm đến, nhiều điều phải học hỏi.
Kinh thánh công bố rằng Đức Chúa Trời đang có mặt ở đàng sau mọi sự. Vũ trụ không hiện hữu đời đời cũng như nó cũng chẳng mới xảy ra đâu. Vũ trụ không bước vào sự hiện hữu là do cơ hội đâu. Một việc quan trọng không xuất hiện từ chỗ không không được. Chỗ không không chẳng tạo ra được cũng chẳng làm dấy lên một điều gì quan trọng được. Có một Đấng Tạo Hóa – một Thân Vị Tối Cao, một Đấng Khôn Ngoan và Mạnh Sức Tối Cao – Ngài đã dựng nên vũ trụ, và Đấng Tạo Hóa đã ban ý nghĩa và mục đích cho vũ trụ.
 Kinh thánh không luận về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời; Kinh thánh công bố sự hiện hữu của Đức Chúa Trời.
 Kinh thánh không luận rằng các từng trời và đất có một Đấng Tạo Hóa; Kinh thánh công bố rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên các từng trời và đất.
Hãy chú ý một sự kiện quan trọng nhất: hai câu đầu tiên của Kinh thánh trả lời cho các thắc mắc cơ bản về sự sáng tạo. Chúng trả lời cho những thắc mắc mà con người đưa ra về nguồn cội của họ và về gốc rễ của vũ trụ.
Khi nào thì vũ trụ được dựng nên: “Ban đầu” (câu 1).
Ai đã dựng nên vũ trụ: “Đức Chúa Trời dựng nên” (câu 1).
Điều chi được dựng nên: “trời đất”, nghĩa là, vũ trụ (câu 1).
Đất được dựng nên như thế nào:
Vô hình và trống không (Sáng thế ký 1:2).
Mờ tối (Sáng thế ký 1:2).
Có nước bao phủ (Sáng thế ký 1:2).
Do hoạt động của Đức Thánh Linh (Sáng thế ký 1:2).
Bố cục khác (1:1-2): Nếu một người vịn vào Gap Theory (Thuyết Lỗ Hỗng) giữa Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2, thế thì người ấy ưa thích bố cục Kinh thánh sau đây. (Xem NC #4, Gap Theory – Sáng thế ký 1:2).
Khi nào thì vũ trụ được dựng nên: “Ban đầu” (câu 1).
Ai đã dựng nên vũ trụ: “Đức Chúa Trời dựng nên” (câu 1).
Điều chi được dựng nên: “trời đất”, nghĩa là, vũ trụ (câu 1).
Điều chi đã xảy ra cho sự sáng tạo nguyên thủy: sự phán xét và sự hủy diệt (Sáng thế ký 1:2).
Đất trở nên trống không và hư hoại
Đất bị bao phủ bởi nước và sự tối tăm
Thần của Đức Chúa Trời bắt đầu vận hành trên mặt nước.
NGHIÊN CỨU #1 (1:1-2:3) Sự Sáng Tạo – Con Người, các nhu cần của con người: trang trọng, rất ấn tượng, đẹp đẽ — đây là lời lẽ đầu tiên mà Đức Chúa Trời muốn nói với con người; đây là lời mở đầu của Kinh thánh.
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1)
Đây là việc đầu tiên mà Đức Chúa Trời tỏ ra với con người, việc thứ nhứt Đức Chúa Trời muốn con người phải nhìn biết: chỗ mà con người và thế giới của con người đã xuất phát. Đức Chúa Trời muốn con người phải nhìn biết nguồn gốc của vũ trụ và nguồn gốc của sự sống ở trên đất. Mà tại sao chứ? Lý do tại sao, là vì Đức Chúa Trời muốn con người phải nhìn biết nguồn gốc của muôn vật trước khi biết bất cứ điều chi khác? Vì cớ bản chất của con người. Bản chất của con người có ba nhu cần cơ bản mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể thỏa mãn được, và Đức Chúa Trời muốn làm thỏa mãn các nhu cần nầy.
1. Có nhu cần dành cho sự sống, nhu cần phải thắng hơn sự chết. Theo tự nhiên, con người chỉ sống ít năm và rồi con người chết đi. Sự sống của con người giống như hơi nước hiện ra một lát rồi lại tan ngay. Sự sống của con người giống như chiếc lá mau trổ ra vào mùa xuân của năm, rồi lại rụng xuống đất khi có gió thu thổi về và trở lại với bụi của đất. Đức Chúa Trời muốn làm thỏa mãn nhu cần của con người về sự sống; Đức Chúa Trời muốn chinh phục sự chết cho con người. Nhưng muốn làm điều nầy, con người phải nhìn biết rằng con người và thế gian đều đã đến từ bàn tay của Đức Chúa Trời, nghĩa là con người thuộc về Đức Chúa Trời — mọi sự người hiện đang có đều thuộc về sự thờ phượng và sự phục vụ cho Đức Chúa Trời. Đây là lý do thứ nhứt con người phải nhìn biết nguồn cội của mình, nghĩa là người đã đến từ bàn tay của Đức Chúa Trời.
2. Có nhu cần của con người phải cải thiện đời sống của mình ở trên đất, nhu cần phải thắng hơn các điều ác có tính cách gây tàn phá trong thế gian, trong tấm lòng của con người và trong xã hội.
Bởi bản chất thế gian hay hư nát, và sự hư nát nầy gây ra đủ loại điều ác và sự tàn phá như lốc xoáy, bão táp, động đất, đói kém, tình trạng vô gia cư, nghèo khổ, và một loạt các thảm họa thiên nhiên khác cùng các chứng bịnh xã hội. Thêm nữa, con người tìm thấy chính tấm lòng của mình và thậm chí tấm lòng của các dân đầy dẫy với điều ác, điều ác ...
 tham lam
 thành kiến
 ích kỷ
 tư dục
 giết người
 chiến tranh
 cay đắng
 say sưa
 phi luân
 kiêu ngạo
 thù ghét
 tấn công
 nói dối
 lừa đảo
 trộm cắp
Nói cách đơn giãn, những sự tàn phá của điều ác đang quét qua đất. Nhu cần kêu gào trong tấm lòng của con người là sự giải cứu, giải cứu ra khỏi điều ác điên tiết đang nô dịch hóa tấm lòng của con người, xã hội và những cộng đồng trên thế gian. Đức Chúa Trời muốn làm thỏa mãn nhu cần của con người muốn cải thiện đời sống của mình trên đất. Đức Chúa Trời muốn chinh phục điều ác đang gây tàn phá trong tấm lòng của con người và trong thế gian nầy. Nhưng muốn làm như thế, con người phải nhìn biết rằng Đức Chúa Trời đang hiện hữu và Đức Chúa Trời sẽ giải cứu con người ra khỏi thế giới hay hư nát nầy. Con người phải công nhận Đức Chúa Trời và đem đời sống mình — mọi sự con người hiện đang có — mà phục theo Đức Chúa Trời, hầu cho Đức Chúa Trời có thể giải cứu người. Đây là lý do thứ hai cho thấy tại sao con người phải nhìn biết nguồn gốc của mình, rằng con người đã đến từ bàn tay của Đức Chúa Trời.
3. Có nhu cần làm thỏa mãn sự khao khát của con người muốn hiểu biết, làm thỏa mãn căn cơ của người muốn biết làm thế nào để kéo dài những năm sống của mình và để cải thiện đời sống của mình ở trên đất. Theo tự nhiên, con người là một tạo vật có tánh tò mò. Con người muốn hiểu biết; vì lẽ đó, người hay đưa ra những thắc mắc. Và khi người đưa ra những thắc mắc, người tìm kiếm và tìm kiếm những giải đáp. Đây là cách con người tiến bộ, thể nào người phát triển kỷ thuật và khoa học của mình, thể nào người kéo dài năm sống của mình và cải thiện đời sống của mình ở trên đất. Đây là lý do con người luôn luôn tìm kiếm gốc gác của mình. Con người muốn biết mình và vũ trụ ra từ đâu!?! Người muốn biết nguồn gốc thế giới của mình và bản thân sự sống. Vì vậy, con người thắc mắc:
 Có phải vũ trụ luôn luôn tồn tại hay có phải vũ trụ có một khởi đầu? Liệu vũ trụ có tồn tại mãi, cho đến đời đời không?
 Sự sống có luôn tồn tại hay có phải nó có một khởi đầu? Liệu sự sống cứ tồn tại mãi, cho đến đời đời chăng?
Số phận của con người nương vào sự hiểu biết giải đáp cho các thắc mắc nầy. Nếu vũ trụ không tồn tại đời đời, thế thì một ngày kia nó sẽ suy tàn và sự sống sẽ đình chỉ không tồn tại nữa. Con người sẽ không tồn tại nữa giống như một loài ở trong vũ trụ vậy. Nhưng thậm chí nếu vũ trụ cứ tiếp tục mãi, con người phải đưa ra thắc mắc thứ nhì: liệu sự sống của con người có tiếp tục tồn tại trong vũ trụ không? Để học biết giải đáp cho các thắc mắc nầy, con người biết rằng mình phải tìm cho ra chỗ mà mình xuất thân. Vì lẽ đó, con người tìm kiếm nguồn cội, gốc rễ của mình, vì lý do tồn tại. Con người phải tìm cho ra...
 Có phải vũ trụ, nghĩa là, năng lượng và vật chất cơ bản của vũ trụ, là đời đời chăng? Nếu không, điều gì đã làm dấy lên vũ trụ và điều chi giữ cho nó cứ hoạt động chứ? Điều chi làm dấy lên sự sống của con người và điều chi giữ cho nó cứ tiếp diễn chứ?
 Nếu vũ trụ không tồn tại đời đời, thế thì điều chi là năng lượng cả thể đã đem vũ trụ và sự sống vào hiện thực chứ?
Con người cảm nhận như vầy: nếu có người có thể khám phá năng lượng và sức mạnh cơ bản, sức mạnh thô đang nằm ở cốt lõi của vũ trụ và của sự sống, thế thì con người có thể khai thác năng lượng và sức mạnh đó. Nếu con người có thể khai thác năng lượng và sức mạnh thô của vũ trụ, thế thì con người có thể kéo dài tuổi thọ của mình và cải thiện sự sống của mình trên đất.
Mục tiêu là đây: con người là một tạo vật có tánh tò mò. Con người muốn biết mình xuất thân từ đâu, tại sao mình có mặt ở đây, và mình sẽ đi đâu. Và Đức Chúa Trời muốn làm thỏa mãn nhu cần của con người, sự khao khát của con người về tri thức và mục đích. Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã phán với con người, ban cho con người Lời của Đức Chúa Trời, là Kinh thánh. Đức Chúa Trời đã tỏ ra lẽ thật quan trọng cả thể cho con người, và lẽ thật thứ nhứt mà con người cần phải biết rõ là nguồn cội của muôn vật. Con người cần phải biết rõ cả hai: con người và vũ trụ đều xuất phát từ bàn tay của chính mình Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, có hai việc khủng khiếp thường xảy ra với con người và với kỷ thuật khoa học của con người.
1. Con người có khuynh hướng quên rằng mình có thể kéo dài sự sống chỉ trong một số năm tháng nhất định mà thôi. Thực vậy, con người có thể sống lâu hơn nhờ vào sự mạnh khỏe, thuốc men, và khoa học. Nhưng con người không có khả năng sống đời đời cho được, không phải bởi các nổ lực riêng của mình, không phải nhờ vào kỷ thuật khoa học của con người. Vì vậy, mọi nổ lực của con người để kéo dài sự sống của mình và để khám phá ra vật chất và năng lượng cơ bản của sự sống vật lý sẽ luôn luôn thiếu mất đi. Có một khám phá duy nhứt có thể kéo dài sự sống một cách miên viễn và đời đời. Đó là sự khám phá cả thể về Đức Chúa Jêsus Christ, Con của Đức Chúa Trời. Con người phải khám phá Đấng Christ và tin cậy Đấng Christ cứu mình khỏi chết. Con người phải tin cậy Đấng Christ ban cho mình sự sống đời đời (đối chiếu
Giăng 3:16-18; 5:24; 10:10).
2. Con người có thể cải thiện đời sống của mình và làm cho mình thấy an nhàn với những sự việc được phát triển nhờ vào khoa học kỷ thuật. Nhưng những thứ vật chất không làm vui thỏa cũng không làm phu phỉ linh hồn của con người, hoàn toàn không, mà cũng không trọn vẹn nữa. Những thứ vật chất không thể tẩy xóa...
 tham lam
 ích kỷ
 say sưa
 giết người
 tư dục
 tích trữ
 thù ghét
 trống vắng
 thiên kiến
 kiêu ngạo
 cay đắng
 cô độc
 phi luân
 ma túy
 chiến tranh
 vô mục đích
Những thứ vật chất của đời nầy không thể tẩy xóa cả đạo quân gian ác đang dấy lên và nô dịch hóa tấm lòng của con người. Những thứ vật chất không thể cải thiện được sự sống của con người, không phải là vấn đề thực của đời sống con người. Thế thì, điều chi có thể? Đấng Christ và tình yêu thương. Khi con người bằng lòng tin cậy Đấng Christ và sống như Đấng Christ dạy phải sống, nghĩa là, phải yêu thương, khi ấy sự sống con người và các mối quan hệ giữa vòng con người sẽ cải thiện đáng kể.
Mục tiêu là đây: Đức Chúa Trời làm thỏa mãn nhu cần của con người nhìn biết về nguồn cội của vũ trụ và của sự sống con người. Trong Kinh thánh — với chính lời lẽ đầu tiên — Đức Chúa Trời nói ngay cho con người biết con người và vũ trụ đã xuất phát từ đâu. Đức Chúa Trời tuyên bố rằng Ngài là sự khôn ngoan cơ bản và là năng lượng và sức mạnh thô ở đàng sau sự hiện hữu của muôn vật. Chính mình Đức Chúa Trời là Đấng Khôn Ngoan và Sức Mạnh Tối Thượng đã dựng nên muôn vật. Ngài là Lý Trí và Năng Lượng Tối Thượng, là Thân Vị và Quyền Phép Tối Thượng, là Chủ Tể và Oai Nghi Tối Thượng, Ngài đã dựng nên muốn vật.
Đây là lý do Kinh thánh bắt đầu với chính mình Đức Chúa Trời, bắt đầu với Đức Chúa Trời đang dựng nên các từng trời và đất. Con người phải nhìn biết Đức Chúa Trời, nhìn biết Ngài theo cách riêng. Một mình Đức Chúa Trời đã dựng nên con người và vũ trụ. Vì lẽ đó, một mình Đức Chúa Trời có thể làm thỏa mãn các nhu cần cơ bản của con người...
 Một mình Đức Chúa Trời có thể giải cứu con người khỏi chết.
 Một mình Đức Chúa Trời có thể giải cứu con người khỏi những điều ác ghê khiếp và gây tàn phá trong thế gian.
 Một mình Đức Chúa Trời có thể cải thiện đời sống của con người và thế gian trên cơ sở thường trực.
 Một mình Đức Chúa Trời có thể tỏ ra những gì đã hiện hữu trước khi có vũ trụ và con người, vì chỉ có một mình Đức Chúa Trời có mặt đó.
Không một người nào có thể quay trở lại trước khi có vật chất và năng lượng đầu tiên, trước khi nguyên tử đầu tiên bước vào hiện thực. Chỉ có Đức Chúa Trời có mặt ở đó mà thôi. Vì vậy, chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể biết được điều chi hiện hữu ở đàng sau biên niên sử của cõi đời đời. Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tỏ ra lẽ thật, chính xác thể nào vũ trụ và con người đã bước vào hiện thực.
1. “Ban đầu” (1:1)Sự sáng tạo: Khi nào thì vũ trụ mới bước vào sự hiện hữu? Vũ trụ bắt đầu lần đầu tiên vào lúc nào? Vật chất được hình thành lần đầu tiên, và năng lượng được kích hoạt lần đầu tiên vào lúc nào? Các từng trời và đất được dựng nên vào lúc nào? Kinh thánh cho chúng ta biết, và Kinh thánh cho chúng ta biết theo phương thức đơn sơ nhất, theo một phương thức mà các dân tộc đều có thể hiều được. Các từng trời và đất được dựng nên lúc “ban đầu” (bereshith). Có một khởi đầu cho vũ trụ. Thế gian cũng như sự sống của con người đều không kéo dài cho đến đời đời được. Vũ trụ không luôn luôn tồn tại. Cụm từ “ban đầu” có ý nói từng có một thời điểm mà muôn vật đã khởi sự lần đầu tiên, khi vũ trụ khởi sự lần đầu tiên. Ý tưởng cho thấy đây là phần bắt đầu tuyệt đối của muôn vật, phần bắt đầu tuyệt đối của thời gian. Học giả lỗi lạc H.C. Leopold nói rằng ý tưởng ấy muốn nói: “phần bắt đầu tuyệt đối của muôn vật được dựng nên” (Genesis, Vol. 1. Grand Rapids, MI; Baker Book House, 1942, p.39). Hãy chú ý hai sự kiện quan trọng:
1. Vũ trụ đã có một khởi đầu. Đã có một thời điểm khi thế gian chưa tồn tại, và rồi thình lình – từ chỗ không không – thế gian đã bắt đầu. Muôn vật trong thế gian đã có một khởi đầu. Đã có một khởi đầu cho muôn vật …
 vây quanh con người.
 để con người vận dụng, xử lý và chiếm hữu
 để lập nên sự sống của con người.
 thuộc cõi vật chất
 lập nên vật chất của thế gian
 tạo ra vật chất và năng lượng
Như đã trình bày, muôn vật đã có một khởi đầu. Đã có một thời điểm khi chẳng có chi hết, chẳng có các từng trời và chẳng có đất, chẳng có vật chất và không có năng lượng vật chất, không có nguyên tử, điện tử, proton, hay neutron, chẳng có hydrogen hay bất kỳ một thể khí nào khác. Chẳng có chi hết trong thế giới thuộc thể và vật chất hay chiều kích nào của sự sống cả. Thế rồi, thật thình lình, từ chỗ không không, vũ trụ bắt đầu được hình thành. Tiến trình thời gian đã bắt đầu. Đã có một khởi đầu. Vũ trụ – những thứ vật chất và thuộc thể – đã bắt đầu. Thế giới vật lý và chiều kích sự sống đã bật mở ra. Vào lúc nào chứ? “Ban đầu” – nơi phần bắt đầu tuyệt đối của sự sáng tạo.
“Lại có phán: Hỡi Chúa, ban đầu trước hết Chúa đã dựng nền đất, Và các từng trời cũng là công việc của tay Chúa” (Hêbơrơ 1:10).
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1).
2. Không một điều gì nói tới cách đây bao lâu vũ trụ được dựng nên. Không một niên đại nào được đưa ra để quyết định tuổi tác của các từng trời và đất. Thậm chí chẳng có một gợi ý nào được đưa ra về tuổi tác nữa.
Tư tưởng 1: Con người phải chú ý đến phân đoạn Kinh thánh nầy. Con người phải biết mình ra từ đâu và lý do tại sao mình có mặt ở đây. Con người không bao giờ hoàn thành được mục đích của mình trên đất, trừ phi con người biết ai đã đặt mình ở đây và lý do tại sao mình bị đặt ở đây.
Phân đoạn nầy cũng đứng như một lời cảnh báo cụ thể cho con người. Một khi con người có khởi đầu, con người cũng có một kết thúc; vì lẽ đó, con người phải sửa soạn đối diện với Thân Vị đã ban cho mình một khởi đầu. Con người phải ăn năn và sửa soạn để đối diện với Đấng Tạo Hóa của mình.
“Trong buổi còn thơ ấu hãy tưởng nhớ Đấng Tạo hóa ngươi, trước khi những ngày gian nan chưa đến, trước khi những năm tới mà ngươi nói rằng: Ta không lấy làm vui lòng” (Truyền đạo 12:1).
“rằng: Các ngươi phải ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần!” (Mathiơ 3:2).
“Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi” (Công Vụ các Sứ Đồ 3:19).
“Vậy, hãy ăn năn điều ác mình, và cầu nguyện Chúa, hầu cho ý tưởng của lòng ngươi đó họa may được tha cho” (Công Vụ các Sứ Đồ 8:22).
“Vậy thì, Đức Chúa Trời đã bỏ qua các đời ngu muội đó, mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn năn” (Công Vụ các Sứ Đồ 17:30)
.
Tư tưởng 2: Đức Chúa Jêsus Christ, Con của Đức Chúa Trời, là đầu và là rốt của muôn vật. Chính vì Ngài mà con người phải ăn năn và xây lại.
“Ban đầu có Ngôi Lời [Đức Chúa Jêsus Christ], Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời” (Giăng 1:1-2).
“Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Hiện Có, Đã Có, Và Còn Đến, là Đấng Toàn năng, phán rằng: Ta là An-pha và Ô-mê-ga” (Khải huyền 1:8).
“Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội thánh Lao-đi-xê rằng: Nầy là lời phán của Đấng A-men, Đấng làm chứng thành tín chân thật, Đấng làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của Đức Chúa Trời” (Khải huyền 3:14).
“Ngài lại phán cùng tôi rằng: Xong rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, nghĩa là đầu tiên và cuối cùng. Kẻ nào khát, ta sẽ lấy nước suối sự sống mà ban cho nhưng không” (Khải huyền 21:6).
“Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là thứ nhất và là sau chót, là đầu và là rốt” (Khải huyền 22:13).
“Ấy cũng chính Ngài là đầu của thân thể, tức là đầu Hội thánh. Ngài là ban đầu sanh trước nhất từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côlôse 1:18).
Tư tưởng 3: Đây là một lẽ thật phổ quát: có một khởi đầu; kết quả, sẽ có một kết thúc. Điều chi có bắt đầu, có một kết thúc. Thế gian và mọi sự trong thế gian sẽ qua đi. Những thứ vật chất và thuộc thể trong thế gian thay đổi hình thái của chúng, qua đi, hư hỏng, phân rã, rồi mất đi. Thậm chí chính con người cũng thay đổi, già đi, và qua mất đi. Người ngã chết. Có một kết thúc cho mọi điều từng khởi sự, kể cả con người.
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1).
“Ta sẽ khởi sự và làm cho hoàn thành” (I Samuên 3:12).
“Hãy nhớ lại những sự ngày xưa; vì ta là Đức Chúa Trời, và chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta. Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng: Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý” (Êsai 46:9-10).
“Lại có phán: Hỡi Chúa, ban đầu trước hết Chúa đã dựng nền đất, Và các từng trời cũng là công việc của tay Chúa. Trời đất sẽ hư đi, nhưng Chúa hằng có; Trời đất sẽ cũ đi như cái áo; Ngài sẽ cuốn nó lại như cái áo choàng, Rồi trời đất sẽ biến đổi, Nhưng Chúa vẫn y nguyên, Các năm của Chúa không hề cùng” (Hêbơrơ 1:10-12).
“Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Hêbơrơ 9:27).
“Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chết bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả. Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi! Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở” (II Phierơ 3:10-13).
2. Sự Sáng Tạo – Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa: Ai đã dựng nên vũ trụ? Đức Chúa Trời. Điều nầy đã được trình bày rất rõ ràng. Như đã nhắc tới ở trên, con người là một tạo vật có tánh tò mò. Con người muốn biết; vì lẽ đó, con người đưa ra những thắc mắc, tìm kiếm luôn những câu trả lời. Khi con người nhìn vào thế gian và bản thân mình, con người lấy làm lạ không biết mình và thế gian đã ra từ đâu!?! Đâu là nguồn gốc của con người và của thế gian? Hãy chú ý ba điểm quan trọng được bao phủ bởi cụm từ rất đơn sơ song lắm quan trọng nầy:
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên …” (Sáng thế ký 1:1).
Thứ nhứt, danh xưng Hybálai nói tới Đức Chúa Trời là Elohim. (Xem NC #2 – Sáng thế ký 1:1 để thảo luận).
Thứ hai, Đức Chúa Trời đã có mặt ở đó ban đầu. “Ban đầu” đã có Thân Vị Tối Thượng – Sự Hiện Diện Tối Thượng, Linh Tối Thượng, Đấng Khôn Ngoan Tối Thượng, Sức Mạnh Tối Thượng – Ngài có sự khôn ngoan và quyền phép để dựng nên vũ trụ. Đấng ấy chính là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hiện hữu trước lúc ban đầu ấy; Ngài có trước ban đầu. Đức Chúa Trời khởi sự buổi ban đầu. Mọi sự nối theo sau đều thích ứng với Ngài. Điều nầy nói tới ba việc quan trọng:
Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đức Chúa Trời của mọi sức mạnh và quyền phép. Ngài là Đấng Oai Nghi và là Chủ Tối Cao của vũ trụ. Ngài đã hiện hữu trước mọi điều chi khác; vì lẽ đó, mọi sự mắc nợ Đức Chúa Trời vì sự hiện hữu của mình. Sự nầy bao gồm cả con người. Con người mắc nợ sự sống của Ngài – mọi sự con người hiện và đang có – sự vâng phục, sự thờ phượng và sự phục vụ Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời là tự hữu và đời đời. Đức Chúa Trời đã hiện hữu. Đức Chúa Trời đã hiện hữu trước khi có mọi điều chi khác. Không một điều gì tạo ra Đức Chúa Trời; không một thứ chi ban sự sống cho Đức Chúa Trời. Ngược lại, Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ, mọi thứ vật chất, các nguyên tử, mọi năng lượng, và sức mạnh ở bên trong vũ trụ. Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự sống bao gồm cả sự sống của con người; vì lẽ đó, con người mắc nợ sự sống của mình – mọi sự con người hiện và đang có – sự vâng phục, sự thờ phượng và sự phục vụ Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời hoàn toàn tự túc. Đức Chúa Trời sỡ hữu mọi sự Ngài có cần ở bên trong Ngài, trong chính linh hồn và nhân cách của Ngài. Ngài rất trọn vẹn – trọn vẹn theo một ý nghĩa tuyệt đối – ở bên trong Ngài. Nhưng con người không tự túc được; vì lẽ đó, con người phải phó sự sống mình – mọi sự người hiện và đang có – cho Đức Chúa Trời. Con người phải vâng phục, thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời trong sự nương cậy hoàn toàn, tin cậy Đức Chúa Trời tiếp trợ cho mọi nhu cần của mình.
Thứ ba, sự thực cho thấy Đức Chúa Trời đã có mặt ở đó “ban đầu” – Ngài đã có mặt ở đó trước khi vũ trụ bước vào hiện hữu – bác bỏ, khước từ, và phá hủy sáu niềm tin của con người.
Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bác bỏ thuyết vô thần (atheism), hình thái phê phán (skepticism) hay thuyết bất khả tri (agnosticism). Thuyết vô thần là niềm tin cho rằng không có Đức Chúa Trời, không có Thần Linh. Hình thái phê phán hay thuyết bất khả tri là niềm tin cho rằng một người không thể nhìn biết có một Đức Chúa Trời hay không!?! Thuyết vô thần và hình thái phê phán đã sai lầm. Kinh thánh, sự mặc khải thành văn của Đức Chúa Trời, tuyên bố rất rõ ràng: “Ban đầu Đức Chúa Trời” – Đức Chúa Trời đang hiện hữu. Ngài là Đấng Tể Trị Oai Nghi của vũ trụ, Đấng Khôn Ngoan và Đấng Mạnh Sức Tối Thượng của vũ trụ.
“Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời. Chúng nó đều bại hoại, đã làm những việc gớm ghiếc; Chẳng có ai làm điều lành” (Thi thiên 14:1).
“Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: Chẳng có Đức Chúa Trời. Chúng nó đều bại hoại, phạm tội ác gớm ghiếc; Chẳng có ai làm điều lành. Đức Chúa Trời từ trên trời ngó xuống con loài người, Đặng xem thử có ai thông sáng, Tìm kiếm Đức Chúa Trời chăng. Chúng nó thay thảy đều lui lại, cùng nhau trở nên ô uế; Chẳng có ai làm điều lành, Dầu một người cũng không” (Thi thiên 53:1-3).
“Nguyện chúng nó bị hổ thẹn và thất kinh đến đời đời; Nguyện chúng nó bị hổ ngươi và hư mất; Hầu cho chúng nó biết rằng chỉ một mình Chúa, danh là Đức Giê-hô-va, Là Đấng Chí cao trên khắp trái đất” (Thi thiên 83:17-18).
“Vì Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các từng trời, tức là Đức Chúa Trời đã tạo thành đất và làm ra nó, đã lập nó cho bền vững, chẳng phải dựng nên là trống không, bèn đã làm nên để dân ở, phán như vầy: Ta là Đức Giê-hô-va, không có Đấng nào khác! Ta chẳng hề nói cách kín giấu, chẳng nói trong nơi của đất tối tăm. Ta chẳng từng phán cùng dòng dõi Gia-cốp rằng: Các ngươi tìm ta là vô ích. Ta, là Đức Giê-hô-va, phán sự công bình, truyền điều chân thật” (Êsai 45:18-19).
Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bác bỏ thuyết phiếm thần (pantheism). Thuyết phiếm thần tin nơi Đức Chúa Trời, nhưng không phải một cá nhân Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chẳng khác gì hơn sức mạnh và năng lượng của vũ trụ , sức mạnh cơ bản và năng lượng của muôn vật. Nói theo cách khác, thuyết phiếm thần cho rằng Đức Chúa Trời không phải là một thân vị, mà là Đức Chúa Trời ở bên trong mọi sự, trong mọi sự như sức mạnh và năng lượng cung ứng sự sống và sự tồn tại cho muôn vật. Thí dụ, hãy xem cây kia đi. Sức mạnh và năng lượng khiến cho cây ra sống động và lớn lên được gán cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời chẳng khác gì hơn năng lượng và sức mạnh khách quan cung ứng sự sống cho cây rồi khiến nó lớn lên.
Kinh thánh chối bỏ mạnh mẽ niềm tin nầy. Kinh thánh tuyên bố rõ ràng rằng Đức Chúa Trời là một thân vị, Thân Vị Tối Thượng và là Chúa Oai Nghi của vũ trụ, và Đức Chúa Trời ấy đã tồn tại trước vũ trụ. Đức Chúa Trời đã tồn tại trước các lực lượng và năng lượng của vũ trụ từng hiện hữu hay đã hoạt động. Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời thì cao hơn và trổi hơn mọi vật chất và mọi năng lượng. Đức Chúa Trời hiện hữu trước khi có vũ trụ và tối thượng hơn vũ trụ. Và Đức Chúa Trời ao ước có mối quan hệ riêng tư với con người.
“Hết thảy các dân mà Chúa đã dựng nên Sẽ đến thờ lạy trước mặt Chúa, Và tôn vinh danh Chúa. Vì Chúa là rất lớn, làm những sự lạ lùng. Chỉ một mình Chúa là Đức Chúa Trời mà thôi. Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy chỉ dạy cho tôi biết đường lối Ngài, Thì tôi sẽ đi theo sự chân thật của Ngài; Xin khiến tôi một lòng kính sợ danh Ngài. Hỡi Chúa, là Đức Chúa Trời tôi, tôi hết lòng ngợi khen Chúa, Tôn vinh danh Chúa đến mãi mãi. Vì sự nhân từ Chúa đối cùng tôi rất lớn, Và Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi âm phủ sâu hơn hết” (Thi thiên 86:9-13).
“Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi là kẻ làm chứng ta, và là đầy tớ ta đã chọn, hầu cho các ngươi được biết và tin ta, và hiểu rằng ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước ta, và cũng chẳng có sau ta nữa. Ấy chính ta, chính ta là Đức Giê-hô-va, ngoài ta không có cứu chúa nào khác. Ay chính ta là Đấng đã rao truyền, đã giải cứu, và đã chỉ bảo, chẳng có thần nào lạ giữa các ngươi. Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi đều là người làm chứng, và ta là Đức Chúa Trời! Thật, từ khi có ngày ta đã là Đức Chúa Trời, chẳng ai có thể giải cứu khỏi tay ta. Ta làm ra, ai ngăn cấm ta được?” (Êsai 43:10-13).
“Đức Giê-hô-va, là Vua và Đấng Cứu chuộc của Y-sơ-ra-ên, là Đức Giê-hô-va vạn quân, phán như vầy: Ta là đầu tiên và cuối cùng; ngoài ta không có Đức Chúa Trời nào khác. Ai là kẻ kêu gọi như ta, rao bảo và phán truyền điều đó từ khi ta đã lập dân tộc xưa nầy? thì hãy rao truyền sự mai sau và điều chi sẽ xảy đến! Chớ kinh hãi và cũng đừng bối rối. Từ thuở đó ta há chẳng từng rao ra cho các ngươi biết sao? Các ngươi làm chứng cho ta. Ngoài ta có Đức Chúa Trời nào khác không? Thật, chẳng có Vầng Đá nào khác; ta không biết đến!” (Êsai 44:6-8).
Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bác bỏ và hủy diệt thuyết đa thần. Thuyết đa thần là niềm tin cho rằng có nhiều thần linh. Nhưng Kinh thánh nói rất rõ ràng: “Ban đầu Đức Chúa Trời …”. Có Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời thôi – một Thần, chớ không phải nhiều thần. Giêhôva Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời duy nhứt. Ngài và chỉ một mình Ngài là Đấng Oai Nghi Tối Thượng của vũ trụ. Thuyết đa thần là một niềm tin giả dối của con người, được hình thành do trí tưởng tượng của chính con người và là ý tưởng của con người về Đức Chúa Trời.
“Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác. Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời” (Xuất Êdíptô ký 20:3-5).
“Ngươi đã chứng kiến mọi điều đó, để nhìn biết rằng Giê-hô-va, ấy là Đức Chúa Trời, chớ không ai khác hơn Ngài” (Phục truyền luật lệ ký 4:35).
“Vì vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! Ngài là rất lớn, chẳng có ai giống như Ngài, và chẳng có Đức Chúa Trời nào khác hơn Ngài, như lỗ tai chúng tôi đã nghe” (II Samuên 7:22).
“Vậy, về sự ăn của cúng tế các thần tượng, chúng ta biết thần tượng trong thế gian thật là hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ không có thần nào khác. Thật người ta xưng có các thần khác, hoặc ở trên trời, hoặc ở dưới đất, (bởi đó họ thờ nhiều thần nhiều chúa), về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy” (I Côrinhtô 8:4-6).
“Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là người; Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ” (I Timôthê 2:5-6).
“chỉ có một Đức Chúa Trời và một Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người” (Êphêsô 4:6).
Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bác bỏ hủy diệt chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật là niềm tin cho rằng vũ trụ là mọi sự hiện đang có đây; thế gian và những việc thuộc thế gian hết thảy đều đang hiện hữu. Năng lượng cơ bản và sức mạnh vật chất, bất luận là gì, đều là năng lượng và sức mạnh tối cao. Chủ nghĩa duy vật nói chẳng có thần linh, chớ không phải một cá nhân Đức Chúa Trời. Việc quan trọng nhất và tối cao nhất trong vũ trụ chính là năng lượng và sức mạnh cơ bản tạo ra đủ thứ vật chất hiện đang tồn tại và đang hoạt động. Vì lẽ đó, vũ trụ và các thế lực của nó hết thảy đều đang có ở đó. Ngoài vũ trụ nầy, ngoài thế giới vật chất và vật lý, chẳng có gì hết. Chẳng có thế giới nào khác, chẳng có thế giới thuộc linh, và chẳng có thiên đàng hay địa ngục. Chỉ có thế giới nầy, chỉ có thể giới vật chất và vật lý.
Kinh thánh công bố bằng một cụm từ: “Không! Một ngàn lần không!” “Ban đầu Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời đã hiện hữu trước khi có vũ trụ vật lý và vật chất nầy. Có nhiều thứ cho cuộc sống hơn là chỉ có thế giới nầy và chủ nghĩa vật chất của nó. Có Đức Chúa Trời, và con người phải chịu trách nhiệm đối với Đức Chúa Trời. Niềm tin của chủ nghĩa duy vật là sai.
“Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mathiơ 6:19-21).
“Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa” (Mathiơ 6:33).
“Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Mathiơ 16:26).
“Nếu ai được cả thiên hạ, mà chính mình phải mất hoặc hư đi, thì có ích gì?” (Luca 9:25).
“Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (I Giăng 2:17).
“Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng ta. Vả, ngươi nói: Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa; song ngươi không biết rằng mình khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và lõa lồ” (Khải huyền 3:16-17).
Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bác bỏ hủy diệt chủ nghĩa nhân văn. Chủ nghĩa nhân văn là niềm tin cho rằng chính con người là hữu thể tối hậu của vũ trụ. Chẳng có Đức Chúa Trời nào hết, không một hữu thế tối cao nào cai trị trên con người và vũ trụ. Con người là quyền bính của chính mình và quyết định số phận của chính mình, và con người có quyền lý luận để kiểm soát và cai trị trên chính mình và thiên nhiên. Chủ nghĩa nhân văn tuyên bố rằng chính con người là hữu thể tối cao của chính mình.
Kinh thánh nhấn mạnh: “Ban đầu Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời đã hiện hữu trước khi con người xuất hiện trên bối cảnh. Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời có trước, trên, và trổi hơn con người. Đức Chúa Trời thì siêu việt hơn con người. Kinh thánh công bố mạnh mẽ rằng Đức Chúa Trời là Đấng Oai Nghi Tối Thượng của vũ trụ, chớ không phải con người. Chủ nghĩa nhân văn là sai lầm, sai lầm chết chóc.
“Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác. Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến ta và giữ các điều răn ta” (Xuất Êdíptô ký 20:3-6).
“Hỡi Y-sơ-ra-ên! hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai. Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (Phục truyền luật lệ ký 6:4-5).
“Các ngươi không biết sao? Vậy thì các ngươi không nghe sao? Người ta há chưa dạy cho các ngươi từ lúc ban đầu? Các ngươi há chẳng hiểu từ khi dựng nền đất? Ấy là Đấng ngự trên vòng trái đất nầy, các dân cư trên đất như cào cào vậy. Chính Ngài là Đấng giương các từng trời ra như cái màn, và giương ra như trại để ở. Chính Ngài là Đấng làm tiêu diệt các quan trưởng và làm cho các quan xét trên đất ra hư không. Họ mới trồng, mới gieo, cây mới châm rễ trong đất, hơi Đức Giê-hô-va thổi qua, thì khô héo; nầy, gió lốc đùa hết đi như rơm rác. Đấng Thánh phán rằng: Vậy thì các ngươi sánh ta cùng ai? Ai sẽ bằng ta? Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo những vật nầy? Ay là Đấng khiến các cơ binh ra theo số nó, và đặt tên hết thảy; chẳng một vật nào thiếu, vì sức mạnh Ngài lớn lắm, và quyền năng Ngài rất cao” (Êsai 40:21-26).
“Ta là Đức Giê-hô-va, không có Đấng nào khác, ngoài ta không có Đức Chúa Trời nào khác nữa. Dầu ngươi không biết ta, ta sẽ thắt lưng ngươi, hầu cho từ phía mặt trời mọc đến phía mặt trời lặn họ được biết rằng không có Đức Chúa Trời nào khác ngoài ta. Ta là Đức Giê-hô-va, không có đấng nào khác. Ấy chính ta là Đấng gây nên sự sáng và dựng nên sự tối tăm, làm ra sự bình an và dựng nên sự tai vạ; chính ta, là Đức Giê-hô-va, là mọi sự đó” (Êsai 45:5-7).
“Vậy hãy truyền rao; hãy bảo chúng nó đến gần, và nghị luận cùng nhau! Từ đời xưa ai đã rao ra sự nầy? ai đã tỏ ra từ lúc thượng cổ? Há chẳng phải ta, là Đức Giê-hô-va, sao? Ngoài ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác! chẳng có Đức Chúa Trời nào khác là công bình và là Cứu Chúa ngoài ta. Hỡi các ngươi hết thảy ở các nơi đầu cùng đất, hãy nhìn xem ta và được cứu! Vì ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác. Ta đã chỉ mình mà thề, lời công bình ra từ miệng ta sẽ chẳng hề trở lại: mọi đầu gối sẽ quì trước mặt ta, mọi lưỡi sẽ chỉ ta ma thề. Người ta sẽ luận về ta rằng: sự công bình và sức mạnh chỉ ở trong Đức Giê-hô-va, người ta sẽ đến cùng Ngài. Mọi kẻ giận Ngài sẽ bị hổ thẹn” (Êsai 45:21-24).
“Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nầy là điều đầu nhất: Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe, Chúa, Đức Chúa Trời chúng ta, là Chúa có một. Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. Nầy là điều thứ hai: Ngươi phải yêu kẻ lân cận như mình. Chẳng có điều răn nào lớn hơn hai điều đó” (Mác 12:29-31).
Sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bác bỏ hủy diệt chủ nghĩa thế tục. Chủ nghĩa thế tục thì tương đương với chủ nghĩa nhân văn. Đấy chỉ là danh xưng khác đột lốt trong cùng niềm tin giống như chủ nghĩa nhân văn. Đây là niềm tin cho rằng thế giới nầy và những thứ thuộc thế giới nầy là mọi sự đang có. Con người không phải là một hữu thể thuộc linh, và con người không chịu trách nhiệm đối với một Đức Chúa Trời chí cao. Vì lẽ đó, con người cần phải tập trung vào đời nầy và chỉ đời nầy mà thôi. Con người cần phải làm cho mình được thoải mái và hạnh phúc khi có thể, và con người thâu lấy nhiều thứ trong đời nầy cho mình khi có thể. Con người cần phải ăn, uống, vui vẻ vì ngày mai người sẽ chết.
Nhưng một lần nữa, Kinh thánh bác bỏ chủ nghĩa thế tục. “Ban đầu Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời đang hiện hữu; Đức Chúa Trời luôn luôn hiện hữu, Ngài đang hiện hữu lúc bây giờ, và Ngài sẽ luôn luôn hiện hữu. Vì lẽ đó, con người phải chịu trách nhiệm đối với Đức Chúa Trời. Con người phải sống cho Đức Chúa Trời, chớ không phải cho đời nầy, cho của cải và cho mọi khoái lạc của nó.
“Vì ngươi đừng sấp mình xuống trước mặt Chúa nào khác, bởi Đức Giê-hô-va tự xưng là Đức Chúa Trời kỵ tà; Ngài thật là một Đức Chúa Trời kỵ tà vậy” (Xuất Êdíptô ký 3414).
“Vậy, hãy tự giữ lấy mình, e rằng vì sự ăn uống quá độ, sự say sưa và sự lo lắng đời nầy làm cho lòng các ngươi mê mẩn chăng, và e ngày ấy đến thình lình trên các ngươi như lưới bủa” (Luca 21:34).
“Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá động đến đồ ô uế, Thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi: Ta sẽ làm Cha các ngươi, Các ngươi làm con trai con gái ta, Chúa Toàn năng phán như vậy” (II Côrinhtô 6:17-18).
“Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức, đang chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ” (Tít 2:12-13).
“Hỡi bọn tà dâm kia, anh em há chẳng biết làm bạn với thế gian tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao? Cho nên, ai muốn làm bạn với thế gian, thì người ấy trở nên kẻ nghịch thù cùng Đức Chúa Trời vậy” (Giacơ 4:4).
“Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra” (I Giăng 2:15-16).
NGHIÊN CỨU #2
(1:1) Đức Chúa Trời (Elohim): Elohim là danh xưng phổ quát hay chung nhất nói tới Đức Chúa Trời trong tiếng Hybálai. Danh nầy có ý nói tới Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đức Chúa Trời của mọi sức mạnh và năng lực. Danh nầy có ý nói tới Đấng Mạnh Sức và Năng Lực, Đấng Toàn Năng, là Đấng với quyền phép và sự khôn ngoan tối thượng, là Đấng luôn luôn hiện hữu, là Đấng Thành Tín, Ngài là Đấng đáng được tôn sùng và kính sợ (xem chú thích – Sáng thế ký 1:3). Quyền phép của (Elohim) Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo là nắn đúc sự tôn sùng và kính sợ vào tấm lòng của con người. Từ ngữ được sử dụng khoảng 2.570 lần trong Kinh thánh. Từ ngữ “Elohim” là một danh từ số nhiều chỉ ra Ba Ngôi Đức Chúa Trời. (Xem chú thích 4, mục 1d – Sáng thế ký 1:2 để thảo luận về ba Thân Vị dính dáng vào sự sáng tạo. Cũng xem chú thích 2 – Sáng thế ký 2:4; chú thích 1 – Sáng thế ký 2:7 để thảo luận về Đức Giêhôva hay Yahweh là một danh xưng chỉ về Đức Chúa Trời. Đối chiếu Sáng thế ký 14:18; Sáng thế ký 15:2; Sáng thế ký 17:1; Sáng thế ký 21:23; Sáng thế ký 22:14: Xuất Êdíptô ký 3:14-15; Xuất Êdíptô ký 4:10-11; I Samuên 1:3).
Tư tưởng 1: Chính danh xưng của Đức Chúa Trời, Elohim, cho chúng ta biết ba điều:
Đức Chúa Trời (Elohim) là Đấng với quyền phép dựng nên vũ trụ.
Đức Chúa Trời (Elohim) là Đấng mà chúng ta nương cậy nơi Ngài giải cứu chúng ta. Ngài luôn luôn hiện hữu, luôn luôn thành tín, Và Ngài có quyền phép và năng lực để cứu giúp chúng ta luôn luôn.
Đức Chúa Trời (Elohim) là Đấng Toàn năng, Đấng Oai Nghi Tối Thượng của vũ trụ; vì lẽ ấy, chúng ta cần phải thờ lạy và phục vụ Ngài với mọi sự tôn sùng và kính sợ.
3. Sự sáng tạo – Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa (1:1). Điều chi đã được dựng nên? Đức Chúa Trời đã dựng nên các từng trời và đất, nghĩa là, vũ trụ. Khi khoa học sử dụng kính thiên văn khỗng lồ của nó cùng những công cụ khác để quét là đo vũ trụ trên cao và đất bên dưới, con người nhìn thấy nhiều sự kiện đáng kinh ngạc nhất.
Trái đất chỉ có 8.000 dặm đường kính và chỉ có 25.000 dặm chu vi. Trái đất chẳng khác gì hạt cát trên bãi biển khi so với vũ trụ.
 Trái đất của chúng ta nằm trong thái dương hệ, một hệ thống có chín hành tinh khác bao quanh mặt trời (10 hành tinh kể cả trái đất). Hành tinh lớn nhất trong thái dương hệ của chúng ta là Mộc tinh. Mộc tinh lớn hơn kích cở của địa cầu khoảng 1.300 lần.
 Mặt trời của chúng ta có đường kính khoảng 864.000 dặm. Mặt trời có thể chứa 1.300.000 địa cầu. Và, nếu chúng ta có thể tính được khoảng cách, thì mặt trời ở cách địa cầu khoảng 93.000.000 dặm. Nhưng đây mới chỉ là phần khởi đầu mà thôi.
 Thái dương hệ của chúng ta là một hệ thống trong hàng triệu hệ thống tạo nên thứ mà khoa học gọi là dãy ngân hà. Có hàng triệu triệu hệ thống thái dương giống như chín hành tinh của chúng ta đang xoay quanh mặt trời – hàng triệu triệu thái dương hệ dựng nên dãy ngân hà của chúng ta. Và dãy ngân hà của chúng ta có hàng tỉ tỉ ngôi sao trải trên khắp bầu trời, hơn 200 tỉ. Những sự kiện như vậy làm dao động trí tưởng tượng của chúng ta. Chỉ nghĩ đến điều nầy thôi: có một ngôi sao thật lớn, một ngôi sao có tên là Betelguese, có đường kính 215 triệu dặm. Sao lớn quá vậy? Mặt trời có thể ngồi giữa tâm ngôi sao và trái đất bay vòng quanh mặt trời trong quỹ đạo của nó mà chẳng chạm đến hai bên rìa của ngôi sao khỗng lồ ấy. (William W. Orr. How We May Know That God Is. Wheaton, IL:Van Kampen Press. No date given, p.29).
 Khi chúng ta ra ngoài vào ban đêm và nhìn lên bầu trời, chúng ta thấy những gì chúng ta gọi là dãy Ngân hà. Dãy Ngân Hà là tên của thiên hà của chúng ta, thiên hà các ngôi sao mà trái đất là một phần trong đó. Khi chúng ta nhìn lên Dãy Ngân Hà trong một đêm đầy sao, những gì chúng ta trông thấy là ánh sáng phản chiếu của hàng tỉ tỉ ngôi sao phản ảnh lãi qua bầu trời đêm, hàng tỉ tỉ ngôi sao là một phần trong thiên hà của chúng ta. Nhưng hãy tưởng tượng điều nầy xem: có hàng triệu thiên hà, hàng tỉ tỉ ngôi sao khôn tả xiết trên bầu không gian rộng lớn kia.
 Nhưng như thế vẫn chưa hết đâu. Khoa học cho chúng ta biết rằng có nhiều thiên hà đang di động với một vận tốc khó mà tin được, một vận tốc nhiều triệu dặm một giờ. Chỉ hình dung thôi! Các ngôi sao cùng những dãy thiên hà trong các từng trời đang cùng nhau di động, chúng di chuyển hàng triệu dặm một giờ đồng hồ. Chúng ta đang sống trong cái được gọi là vũ trụ trải rộng, một vũ trụ ngày càng phát triển. Như đã trình bày, các từng trời, những dãy thiên hà của vũ trụ chúng ta, đang trải rộng nhiều thêm – cùng nhau di chuyển ngày càng xa thật xa, bay đi với vận tốc hàng triệu dặm một giờ. Sâu sắc, ấn tượng, tuyệt đẹp. Khi chúng ta đứng lui lại rồi nhìn lên các ngôi sao trên trời và suy nghĩ về sự rộng lớn bao la của nó, hết thảy chúng ta sẽ đứng trong sự kinh ngạc nơi sự vinh hiển của các từng trời bên trên. Nhưng như thế vẫn chưa hết đâu.
 Khi chúng ta tập trung vào thế giới của địa cầu nhỏ bé và vũ trụ, chúng ta đứng trong kinh ngạc nơi sự vinh hiển của thế giới nhỏ bé ấy. Có thế giới nhỏ bé của con kiến bận rộn và thế giới vụn vặt của mọi tạo vật nhỏ nhoi khác đang lôi cuốn chúng ta. Nhưng có nhiều thứ trong thế giới nhỏ nhoi và vụn vặt mà mắt thường trông thấy được. Ví dụ, đâu là những hạt nhỏ nhất của sự sống? Những hạt ấy gồm có gì? Điều gì làm cho mọi vật ra sống động vậy? Đâu là các phần tử cơ bản và mảng xây dựng sự sống? Khoa học đã khám phá ra nhiều thứ, đủ để nói cho chúng ta biết rằng vũ trụ và sự sống được dựng nên từ những nguyên tử và điện tử, proton, neutron và nhiều thứ hạt sự sống khác nữa – những thứ hạt nhỏ nhoi, trông thấy được bằng mắt thường và thậm chí vượt quá sự hiểu biết của con người ngày hôm nay. Con người vẫn chưa khám phá hết các yếu tố cơ bản và sức mạnh của vũ trụ.
Một ngày kia, nếu thế gian còn trụ đủ lâu, con người có thể khám phá ra yếu tố cơ bản, vật liệu và năng lực thô của sự sống và sự tồn tại. Nếu ngày ấy đến, con người sẽ đưa ra một khám phá đáng giật mình. Lời công bố của Kinh thánh rất là thực: đàng sau mọi sự ấy chính là Đức Chúa Trời. Đây là lời công bố rõ ràng của Kinh thánh:
“Ban đầu [chính lúc ban đầu] Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1).
“Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Côlôse 1:17).
Các từng trời và đất đã ra từ đâu? Đâu là nguồn gốc của vũ trụ? Không một lời công bố nào là rõ rệt được đưa ra cả. Không thể nói sao cho đơn giãn hơn thế nầy: Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ. Các từng trời và đất hiển hiện vì Đức Chúa Trời đã đưa chúng vào sự hiển hiện. Hãy chứ ý bốn sự kiện quan trọng:
1. Đức Chúa Trời đã có mặt ở đó khi các từng trời và đất được đựng nên. Trước khi bất cứ việc gì được dựng nên, Đức Chúa Trời đã hiện hữu rồi. Sự hiện diện và quyền phép của Ngài hiện hữu ở khắp mọi nơi, y như chúng hiện có trong lúc bây giờ. Đức Chúa Trời luôn luôn hằng hữu, đời đời. Và Đức Chúa Trời hiện hằng hữu bây giờ, và Ngài sẽ hằng hữu cho đến đời đời. Đức Chúa Trời cứ sống mãi cho đến đời đời.
Tư tưởng 1: Khi áp dụng điều nầy cho chúng ta, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng Đức Chúa Trời đang hiện diện với chúng ta. Ngài bao quanh chúng ta và muốn làm cho chúng ta nhận biết Ngài. Ngài muốn chúng ta kinh nghiệm sự hiện diện và quyền phép của Ngài, để nhận biết Ngài theo cách riêng. Vấn đề, ấy là có ít người kéo đến gần Ngài; vì vậy có ít người tìm cách nhận biết Ngài.
“Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp” (Phục truyền luật lệ ký 4:29).
“Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần!” (Êsai 55:6).
“Các ngươi sẽ tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm kiếm ta hết lòng” (Giêrêmi 29:13).
“Đức Chúa Trời đã dựng nên thế giới và mọi vật trong đó, là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta dựng nên đâu. Ngài cũng chẳng dùng tay người ta hầu việc Ngài dường như có cần đến sự gì, vì Ngài là Đấng ban sự sống, hơi sống, muôn vật cho mọi loài. Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người, và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở, hầu cho tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm cho được, dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta. Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có, y như xưa một vài thi nhân của các ngươi có nói rằng: Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài” (Công Vụ các Sứ Đồ 17:24-28).
2. Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ từ chỗ không không (ex nihilo). (Xem NC #3 – Sáng thế ký 1:1 để thảo luận)
3. Có một mục đích trong sự sáng tạo. Nhiều việc không xảy ra do cơ hội hay bừa bãi đâu; vũ trụ không phải chỉ mới bước vào sự hiện hữu, không phải mới xuất hiện đâu. Vũ trụ không những bắt đầu từ chỗ không không. Đức Chúa Trời đã có mặt ở đó. Sự thực nầy – Đức Chúa Trời có mặt ở đó – có ý nói rằng Ngài đã suy nghĩ về vũ trụ. Ý tưởng về vũ trụ đã có trong lý trí của Ngài, và Ngài mong muốn nó. Vì vậy, Ngài đã hoạch định và cố ý hoạch định nó, rồi Ngài đưa nó vào hiện thực. Đức Chúa Trời đã có mặt ở đó trước khi vụ trụ được dựng nên. Vũ trụ là lý trí và suy tưởng của Ngài, sự khôn ngoan và quyền phép của Ngài đã dựng nên vũ trụ. Vi vậy, có mục đích cho vũ trụ. Đức Chúa Trời có một mục đích rất đáng sợ, một lý do lớn lao, vinh hiển cho việc dựng nên vũ trụ và sự sống. (Xem chú thích 4 – Sáng thế ký 1:28; bố cục – Sáng thế ký 2:15-17 và các chú thích – Sáng thế ký 2:15-17 để thảo luận).
Tư tưởng 1: Có nhiều thứ cho cuộc sống hơn là thuộc thể và vật chất …
 nhiều thứ cho cuộc sống hơn là những thứ thuộc đời nầy.
 nhiều thứ cho cuộc sống hơn là an nhàn và khoái lạc
 nhiều thứ cho cuộc sống hơn là tiền bạc và quyền lực
 nhiều thứ cho cuộc sống hơn là địa vị và uy tín
 nhiều thứ cho cuộc sống hơn là sự công nhận và tiếng tăm
Có Đức Chúa Trời và sự hiện diện của Ngài, Đức Chúa Trời và mục đích của Ngài cho cuộc sống. Cuộc sống thì đầy dẫy mục đích, ý nghĩa, và tầm quan trọng. Cuộc sống không phải là trống rỗng, cô độc, và xa cách Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ và ban cho con người sự sống hầu cho con người có thể được phu phỉ, thỏa mãn và sống cho đến đời đời. Đức Chúa Trời đã ban cho con người sự sống hầu cho con người có thể sống trong sự đầy dẫy những điều thuộc về Đức Chúa Trời, tỉ như:
 yêu thương, vui mừng và bình an
 nhịn nhục, nhân từ, hiền lành
 trung tín, mềm mại, tiết độ (Galati 5:22-23).
Đức Chúa Trời đã ban cho con người sự sống hầu cho con người có thể tương giao, thờ phượng, và phục vụ Đức Chúa Trời trong sự đầy dẫy sự sống miên viễn.
“Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi là kẻ làm chứng ta, và là đầy tớ ta đã chọn, hầu cho các ngươi được biết và tin ta, và hiểu rằng ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước ta, và cũng chẳng có sau ta nữa” (Êsai 43:10).
“Đức Giê-hô-va phán: Vì ta biết ý tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình” (Giêrêmi 29:11).
“Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10).
“Hỡi Anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Philíp 3:13-14).
Các từng trời và đất tỏ ra một số việc về Đức Chúa Trời. Nhiều học giả gọi đây là mặc khải thiên nhiên. Nói rất đơn giãn, khi chúng ta đứng lui lại rồi nhìn lên các từng trời và đất, chúng cho chúng ta biết một việc quan trọng về Đức Chúa Trời là ai và Đức Chúa Trời giống với điều gì!?! Người ta vốn mong đợi điều nầy; thực vậy, không thể mong đợi điều chi khác nữa. Một khi Đức Chúa Trời dựng nên thế gian, thế gian bị buộc phải con tem của Đức Chúa Trời dán trên đó. Nghĩa là, thế gian buộc phải tỏ ra cho chúng ta thấy một số việc về Đức Chúa Trời. Rôma 1:20 chép như sau:
“bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rôma 1:20).
Hãy chú ý, câu nầy trong sách Rôma rõ ràng đang trình bày những gì chúng ta biết được về Đức Chúa Trời: “quyền phép đời đời”“bản tánh Ngài”, nghĩa là, thần tánh của Ngài. Sự sáng tạo ràng rành tỏ ra Đức Chúa Trời. Cả vũ trụ, sự hiện diện và bản chất của nó, đang công bố ra Đức Chúa Trời. Nhưng hãy chú ý một sự kiện thường ít được chú ý đến; con người có thể nhìn vào thiên nhiên và thấy nhiều thứ hơn sự thực đơn giãn Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Con người có thể nhìn thấy nhiều thứ hơn là một Hữu Thể Tối Thượng ở đàng sau sự sáng tạo. Con người có thể nhìn thấy “những việc không thấy được” của Đức Chúa Trời. Ít nhất, điều nầy có ý nói tới hai việc:
Con người có thể nhìn thấy “quyền phép đời đời”, Đấng Khôn Ngoan và Sức Mạnh Tối Thượng (hay Năng Lực và Quyền Phép) của Đức Chúa Trời. Con người có thể nhìn vào sự sáng tạo đất và không gian bên ngoài, thực vật và thú đồng, người nam người nữ; con người có thể nhìn xem và rõ ràng thấy:
 các bộ phận và cấu trúc của chúng
 đa dạng và xinh đẹp
 sự sắp xếp và trật tự
 mục đích và luật lệ
Khi con người nhìn vào những việc như thế rồi lý luận với một tinh thần trung thực, con người nhìn thấy rõ ràng rằng thế gian đã được dựng nên bởi một Đấng Tạo Hóa. Nhưng, như đã trình bày ở trên, con người nhìn thấy nhiều thứ hơn. Con người nhìn thấy Đấng Tạo Hóa là một Đức Chúa Trời siêu việt …
 sống & hằng sống
 vinh hiển
 đẹp đẽ & hùng vĩ
 kín nhiệm (nhiều thứ không hiểu nổi; kín nhiệm)
 khôn ngoan & tri thức
 mục đích & ý nghĩa
 thiết kế & trật tự (luật lệ)
 giá trị & xứng đáng (về đạo đức)
 năng lực & quyền phép (Sức Mạnh Tối Thượng).
Con người có thể nhìn thấy “bản tánh Ngài”, nghĩa là, thần tánh của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nhìn vào thiên nhiên rồi lý luận với tinh thần trung thực, con người nhìn thấy rõ ràng Đấng Tạo Hóa là một Đức Chúa Trời Ngài …
 quan tâm và tiếp trợ cho những điều Ngài đã dựng nên
 ban sự sống và lấy làm vui về sự sống
 tái tạo, bổ sung, và cưu mang luôn muôn vật.
 xứng đáng được tôn thờ và vâng phục (Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo sự sống, có mục đích và hằng hữu. Ngài là Thân Vị Tối Thượng của luật lệ và trật tự. Kết quả, Ngài đòi hỏi mọi thần dân của Ngài phải phục sự và vâng theo Ngài).
Tư tưởng 1: Hãy chú ý điều Kinh thánh nói: con người không chữa mình được (Rôma 1:20). Sự thực nầy gây dốc đấy. Con người có từng chứng cớ có thể hình dung được trong sự sáng tạo hướng dẫn người đến với Đức Chúa Trời; tuy nhiên, con người từ chối không hiểu biết Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo. Vì lẽ đó, con người không chữa mình được. Con người chẳng có một lời biện hộ, không có một câu trả lời, và chẳng có một lý cớ nào có thể xưng công bình cho sự mình chối bỏ Đức Chúa Trời.
“dầu vậy, Ngài cứ làm chứng luôn về mình, tức là giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho các ngươi mùa màng nhiều hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng” (Công Vụ các Sứ Đồ 14:17).
“bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rôma 1:20).
“Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi những vật bày ra đó đều chẳng phải từ vật thấy được mà đến” (Hêbơrơ 11:3).
“Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hêbơrơ 11:6).
“Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, Bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi thiên 19:1).
“Các từng trời truyền ra sự công bình Ngài, Muôn dân đã thấy sự vinh hiển Ngài” (Thi thiên 97:6)
Tư tưởng 2: Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của vũ trụ, Đấng Khôn Ngoan và Mạnh Sức Tối Thượng của muôn vật ấy. Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời là Chủ Tể của muôn vật. Ngài có đủ mọi quyền hạn đối với thế gian. Điều nầy bao gồm cả con người. Đức Chúa Trời là Chủ Tể hợp pháp sự sống của con người; Ngài xứng đáng với mọi quyền bính và mọi sự trong cuộc sống của con người. Con người mắc nợ sự sống của Ngài, mọi sự mà con người hiện đang có đối với Đức Chúa Trời.
“Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rôma 12:1).
“Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” (I Côrinhtô 6:19-20).
Tư tưởng 3: Đức Chúa Trời có sự khôn sáng và sức mạnh tối thượng. Vì lẽ đó, Ngài có sự khôn sáng và quyền phép để giúp chúng ta trải qua bất kỳ thử thách nào, bất luận chúng có gay gắt và kinh khiếp dường nào.
“Tôi ngước mắt lên trên núi: Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu? Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va, Là Đấng đã dựng nên trời và đất” (Thi thiên 121:1-2).
“Đừng sợ, vì ta ở với ngươi; chớ kinh khiếp, vì ta là Đức Chúa Trời ngươi! Ta sẽ bổ sức cho ngươi; phải, ta sẽ giúp đỡ ngươi, lấy tay hữu công bình ta mà nâng đỡ ngươi” (Êsai 41:10).
“Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?” (Hêbơrơ 13:5-6).
Tư tưởng 4: Khi chúng ta nhìn vào vẻ đẹp của bầu trời bên trên hay đất bên dưới, chúng ta sẽ có thói quen…
 nhớ rằng Đức Chúa Trời đã làm mọi sự ấy; Ngài đã dựng nên vũ trụ với mọi nét đẹp đẽ và hùng vĩ của nó.
 ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Trời vì mọi công việc của Ngài trong vũ trụ.
 cầu xin Đức Chúa Trời sẽ vùa giúp chúng ta làm tròn mục đích của chúng ta trong vai trò tạo vật của Ngài, tôn thờ và phục vụ Ngài hàng ngày cách trung tín.
NGHIÊN CỨU #3:
(1:1) Sự Sáng tạo: có hai từ Hybálai được sử dụng nói tới sự sáng tạo trong Sáng thế ký 1:1, bara và asah. Cách sử dụng từ như thế nầy thường ủng hộ cuộc thảo luận về sự sáng tạo vào thời kỳ tiền-lịch sử (Xem Nghiên Cứu #4, Lý thuyết nói tới lỗ hỗng – Sáng thế ký 1:2).
Từ ngữ “dựng nên” (bara) được sử dụng ba lần ở Sáng thế ký 1. Sự dựng nên trời và đất (Sáng thế ký 1:1); dựng nên đại dương và các loài chim hay bay (Sáng thế ký 1:21); và dựng nên con người (Sáng thế ký 1:27). Hai sự kiện quan trọng cần phải lưu ý về từ ngữ bara.
Chữ bara chỉ được sử dụng cho Đức Chúa Trời, chỉ khi chính mình Đức Chúa Trời đứng sáng tạo.
Chữ bara chỉ được sử dụng khi Đức Chúa Trời sáng tạo ra một việc gì mới mẻ, chỉ khi Ngài sáng tạo ra điều chi lần đầu tiên, dựng nên thứ chi từ chỗ không không. Nghĩa là, chẳng có vật chất nào hiện hữu. Sáng thế ký 1:1 dạy rõ ràng rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên thế gian từ chỗ không không (ex nihilo). Chỉ có Đức Chúa Trời mới hiện hữu trước khi có địa cầu. Không một thứ vật chất nào hiệu hữu cùng với Đức Chúa Trời. Một mình Đức Chúa Trời là đời đời. Ngài và chỉ một mình Ngài là Đấng Oai Nghi Tối Thượng của vũ trụ.
Từ ngữ “dựng nên” (asah) thì khác biệt hoàn toàn. Từ nầy có ý nói đến tạo thành, nắn đúc, hình thành nhiều thứ từ chỗ không có một thứ vật chất nào hiện hữu. Hai dẫn chứng đáng phải để ý:
Khẳng định rằng thế gian là phức tạp như thế gian của chúng ta nổi bật lên từ chỗ hỗn độn bởi cơ hội vốn nhạy cảm như xưng nhận bi kịch của Shakespear đã được sáng tác bởi bầy khỉ sắp chữ trong một tiệm in” (Merrill C. Tenney. Living Quotations for Christians, ed. By Sherwood Eliot Wirt and Kersten Beckstrom. New York, NY: Harper & Row, Publishers, 1974, p.46).

“Xác suất về sự sống bắt nguồn từ chỗ tình cờ có thể sánh với xác suất quyển tự điển đầy đủ kết quả từ một vụ nổ của một tiệm in" (Edwin Conklin. Living Qutations for Christians, ed. By Sherwood Eliot Wirt and Kersten Beckstrom. New York, NY: Harper & Row, Publishers, 1974, p.45).
4. Sự sáng tạo – Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa Lý thuyết đất vô hình (unshaped earth theory): Đất được dựng nên như thế nào? Hãy chú ý mục tiêu giờ đây tập trung vào quả đất. Địa cầu là mối quan tâm chính của con người, vì địa cầu là ngôi nhà chính của con người, và con người chịu trách nhiệm về việc chăm sóc và coi chừng địa cầu, và bắt phục nó (Sáng thế ký 1:28). Vì lẽ đó, giờ đây Kinh thánh chú trọng vào quả đất, nơi ở chính của con người, là nơi mà con người phải chịu trách nhiệm. Đây là câu Kinh thánh gây tranh cãi cao độ. Có hai lập trường và cách giải thích cơ bản về câu nầy, nhưng mỗi người phải quyết định cho chính mình mình theo lập trường nào. Có những bàn luận mạnh mẽ cho cả hai cách giải thích. (Làm ơn chú ý: bố cục bên cạnh Sáng thế ký 1:2 theo cách giải thích của bản dịch KJV, vì đây là câu gốc được tóm tắt lại bởi The Preacher’s Outline and Sermon Bible. Bản KJV dịch Sáng thế ký 1:2 theo The Unshaped or Undeveloped Earth Theory. Bố cục cho The Divine Judgement or Gap Theory được cung ứng ở Nghiên cứu #4 – Sáng thế ký 1:2).
1. Có lập trường Địa Cầu Chưa Hình Thành và Chưa Phát Triển (The Unshaped or Undeveloped Earth). Lập trường nầy cho rằng địa cầu đã được dựng nên theo các giai đoạn mà Sáng thế ký 1 chép.
 Câu 1 mở ra giai đoạn thứ nhứt của sự sáng tạo: Đức Chúa Trời đã dựng nên địa cầu cùng lúc với các từng trời. Ngài đã sử dụng quyền phép tối thượng của Ngài để treo cả địa cầu cùng các thiên thể khác trong khoảng không gian cùng một thời điểm.
 Câu 2 mô tả đất trông giống với điều gì ở giai đoạn 1 sự sáng tạo, nó giống với điều gì trước khi 7 ngày sáng tạo diễn ra, trước khi Đức Chúa Trời dựng nên sự sáng, rau cỏ, thú đồng và con người.
Có bốn điểm cần phải chú ý về lập trường nầy:
a. Đất là “vô hình và trống không” (tohu va bohu, Sáng thế ký 1:2). Điều nầy có ý nói rằng địa cầu thì giống như bao hành tinh khác được rãi ra khắp không gian …
 vô hình và trống không
 trơ trọi
 hoang vu và không có cây cối chi hết
 chưa phát triển và chưa xong xuôi chi cả
 không kết quả và không sản sinh gì được
“Tôi xem đất: nầy, là vô hình và trống không; xem các từng trời: thì không có sự sáng” (Giêrêmi 4:23)
Điều nầy cũng có ý nói rằng địa cầu đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển của thể khí, một sự pha trộn các thể khí cùng những yếu tố rắn dựng nên các hành tinh, ngôi sao trong không gian. Khoa học cho chúng ta biết rằng có các thiên thể trên bầu trời hiện đang được hình thành lúc bây giờ, mỗi thiên thể đang ở trong thể khí hay trong sự phát triển rắn lên lần. Như đã trình bày, điều nầy có thể được cho là “vô hình và trống không”. Địa cầu đã trải qua các giai đoạn hình thành của sự phát triển, cả giai đoạn ở thể khí và thể rắn. Nếu thực vậy, điều nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên nguyên tử cùng các yếu tố cơ bản khác của vũ trụ rồi để cho chúng hình thành qua các luật lệ tự nhiên mà Ngài đã đề ra để vận hành. Chúng ta có thể nói sâu xa hơn, đây là phương thức các ngôi sao và các thế giới được hình thành trong các khu vực xa xôi trong bầu không gian hiện nay. Chỉ suy nghĩ đến vẻ đẹp mà Đức Chúa Trời duy trì trên cơ sở mỗi ngày thôi – vẻ đẹp của công tác sáng tạo của Ngài – vẻ đẹp của việc hình thành các ngôi sao làm sự sáng phản ảnh màu sắc chiếc cầu vồng bằng các yếu tố cùng thế khí đa dạng. Nếu đây là những gì đã xảy ra, thế thì mọi câu nói ở đây trong Sáng thế ký 1 đều đã diễn ra trải qua một thời gian rất dài.
Làm thế nào một tấm mền tăm tối có thể che phủ đất khi các thiên thể trên trời (mặt trời, mặt trăng cùng các ngôi sao) đã được dựng nên rồi ở Sáng thế ký 1:1? Kinh thánh cho chúng ta biết: vì một lớp sương dày – những đám mây và sương dày đặc – đã che phủ đất (Sáng thế ký 2:4-6, đối chiếu Sáng thế ký 2:6).
b. Đất được quấn trong cái mền tăm tối (Sáng thế ký 1:2). Cả đất, chớ không phải một phần trong đó, bị sự tối tăm bao phủ. Ý ở đây là …
 tối tăm tuyệt đối và hoàn toàn
 tối tăm trọn vẹn
 tối tăm dày đặc
 tối đen như mực
c. Đất bị nước bao phủ (Sáng thế ký 1:2). Đã có một thời điểm trong các thế đại thuộc quá khứ khi cả đất bị nước bao phủ. Hãy chú ý cụm từ “mặt vực”: đây là phần mô tả đơn giãn về “nước” được nhắc tới trong câu kế. H.C. Leupold, nhà thần học và nhà văn lỗi lạc thuộc hệ phái Luther, ông nói rằng từ ngữ Hybálai nói tới “vực” phác họa đất như đang bị bao phủ với “nước nguyên sinh đang sủi bọt, dữ dội” (Exposition of Genesis). Bề mặt của địa cầu không phải là bộ mặt bình an và phẳng lặng đâu. Bề mặt của quả đất bị nước bao phủ, nó nổi ba đào khắp nơi với những làn sóng khỗng lồ to lớn, đó đây ba đào những “nước sủi bọt, giận dữ”. Hãy nhớ rằng địa cầu cũng bị quấn trong tấm mền tối tăm. Hình ảnh cho thấy rằng một lớp sương dày đặc và mây mù đang treo trên những làn sóng khỗng lồ, to lớn và những “nước sủi bọt, giận dữ” – mọi sự đang diễn ra dưới bóng che phủ của sự tối tăm như mực kia. (Đúng là một sự khủng khiếp, tuy nhiên rất mê hoặc, đất đã bị đặt vào thời khắc lịch sự đó).
d. Đất được dựng nên bởi Thần của Đức Chúa Trời, nghĩa là, Đức Thánh Linh.
“Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (Sáng thế ký 1:2).
Từ ngữ “vận hành” có ý nói tới việc “chuyển động từ từ, một sự lỡn vỡn có tính bảo hộ” … Sự “lỡn vỡn” nầy không phải là một hành động đơn giãn và tức thời đâu. Thay vì thế, nó mô tả một tiến trình liên tục (H.C. Leupold. Exposition of Genesis, Vol.1.p.48, 51). Hình ảnh cho thấy rằng Thần của Đức Chúa Trời đang lỡn vỡn trên đất, chăm sóc nó và bảo hộ nó, cho tới chừng Ngài sẵn sàng hành động vì ích cho nó. Nhưng hình ảnh cũng cho thấy rằng Thần của Đức Chúa Trời đã sẵn sàng mở ra giai đoạn thứ hai của sự sáng tạo. Ngài đang lỡn vỡn, sẵn sàng vận hành, nắn đúc, hình thành và khiến cho đất sanh sản và kết quả. Ngài đã sẵn sàng vận hành và dựng nên sự sống để sống ở trên đất.
Hãy chú ý, Thần của Đức Chúa Trời rất năng động trong sự sáng tạo cũng như Đức Chúa Cha. Điều nầy đã được công bố trên khắp cả Kinh thánh. Thực vậy, Kinh thánh công bố rằng tất vả ba thân vị của Đức Chúa Trời đểu năng động dấn thân vào công cuộc sáng tạo.
 Đức Chúa Cha đã dấn thân vào công cuộc sống tạo
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng thế ký 1:1).
 Đức Thánh Linh đã dấn thân vào công cuộc sống tạo
“Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (Sáng thế ký 1:2).
“Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Giê-hô-va, Cả cơ binh trời bởi hơi thở của miệng Ngài mà có” (Thi thiên 33:6)
.
“Chúa sai Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên; Chúa làm cho mặt đất ra mới” (Thi thiên 104:30).
“Thần Chúa điểm trang các từng trời; Tay Chúa đấm lũng rắn thoảng qua lẹ” (Gióp 26:13).
 Đức Chúa Con, là Đức Chúa Jêsus Christ, đã dấn thân vào công cuộc sống tạo
“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài” (Giăng 1:1-3).
“về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy” (I Côrinhtô 8:6)

“Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả” (Côlôse 1:16)
“Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao” (Hêbơrơ 1:3).
Tư tưởng 1: Đức Chúa Trời đã sáng tạo theo như Ngài mong muốn. Ngài bắt đầu tiến trình sáng tạo rồi vận hành từng bước một, rõ ràng tỏ ra rằng với Ngài mọi sự đều khả thi. Ngài lặp đi lặp lại hành động sáng tạo, vận hành từ giai đoạn đầu tiên của sự sáng tạo từ chỗ đất vô hình qua sáu ngày của sự sáng tạo. Bằng cách lặp đi lặp lại quyền phép sáng tạo của Ngài, Đức Chúa Trời gõ vào lý trí của con người hai lẽ thật quan trọng:
1) Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời (Elohim. Xem chú thích 6, Nghiên Cứu #2 – Sáng thế ký 1:1 để thảo luận)
2) Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã dựng nên. Một mình Ngài có quyền phép để sáng tạo; vì lẽ đó, Ngài xứng đáng với mọi sự khen ngợi, và Ngài đáng được tôn cao hơn hết thảy.
“Khi ấy những người Lê-vi, là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Phê-ta-hia nói rằng: Hãy đứng dậy, ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là Đấng hằng có đời đời kiếp kiếp! Đáng ngợi khen danh vinh hiển của Ngài, vẫn trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi. Ôi chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa” (Nêhêmi 9:5-6).
Tư tưởng 2: Đức Chúa Trời đã dựng nên đất theo từng chặng một. Ngài có quyền phép để lấy đất vô hình và trống không, nắn đúc rồi hình thành nó. Ngài có quyền phép để lấy đất không có sự sống và không dân cư ở rồi dựng nên sự sống và đem dân đến ở đó. Vì thế, Đức Chúa Trời là Chủ Tể Oai Nghi Tối Thượng của vũ trụ. Là Chủ Tể Tối Thượng, Đức Chúa Trời tỏ ra ba lẽ thật kỳ diệu cho chúng ta thấy:
1) Đức Chúa Trời có quyền bắt lấy một người rồi khiến trở thành một tạo vật mới từ người ấy. Và Đức Chúa Trời có quyền lấy người mới đó, tạo vật mới đó, rồi đưa người đi từng chặng một cho tới chừng nào người đạt tới đỉnh cao của sự cứu chuộc và sự trọn lành – mọi sự lúc Đức Chúa Jêsus Christ tái lâm.
“Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (II Côrinhtô 5:17).
“tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ” (Philíp 1:6).
“Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó” (II Timôthê 1:12).
“là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!” (I Phierơ 1:5).
“Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được, là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men” (Giuđe 24-25).
2) Đức Chúa Trời cũng có quyền phép lấy vũ trụ trong hiện tại, là thứ đã hư hoại, rồi hủy diệt nó, và khiến thành trời mới đất mới.
“Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chết bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả. Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi! Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở. Vậy nên, hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em trông đợi những sự đó, thì phải làm hết sức mình, hầu cho Chúa thấy anh em ở bình an, không dấu vít, chẳng chỗ trách được” (II Phierơ 3:10-14).
“Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết ,cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi. Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy, ta làm mới lại hết thảy muôn vật. Đoạn, lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung tín và chân thật” (Khải huyền 21:1-5).
“Ta sẽ dựng trời mới đất mới; những việc trước sẽ chẳng nhớ nữa, chẳng còn nhắc đến nữa” (Êsai 65:17).
“Đức Giê-hô-va phán: Vì như trời mới đất mới mà ta hầu dựng, sẽ cứ còn trước mặt ta thể nào, thì dòng giống và danh hiệu các ngươi cũng sẽ cứ còn thể ấy” (Êsai 66:22).
“Thật thế, muôn vật ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay” (Rôma 8:19-22).
3) Đức Chúa Trời có quyền phép làm cho sống thứ vật chất chết, không có sự sống rồi ban sự sống cho nó. Ngài có quyền phép “ban sự sống cho kẻ chết, gọi những sự không có như có rồi” (Rôma 4:17).
“Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình” (Êphêsô 2:1).
“Khi anh em đã chết bởi tội lỗi mình và sự xác thịt mình không chịu cắt bì, thì Đức Chúa Trời đã khiến anh em sống lại với Đấng Christ, vì đã tha thứ hết mọi tội chúng ta” (Côlôse 2:13).
2. Có lập trường nói tới sự phán xét thiêng liêng hay lỗ hỗng. (Xem Nghiên Cứu #4 – Sáng thế ký 1:2 để thảo luận).
(1:2) NGHIÊN CỨU #4: Sự sáng tạo – Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa – Lý thuyết lỗ hỗng – Thuyết sự phán xét thiêng liêng – Thuyết tái tạo – Thuyết hồi phục – Sự sa ngã của Satan: điều kiện chính thứ nhì trong sự sáng tạo được biết ít nhất qua bốn danh xưng, nhưng danh xưng được sử dụng nhiều nhất có lẽ là Lý Thuyết Lỗ Hỗng. Các danh xưng khác bởi đó người ta biết đến lý thuyết là Thuyết Tái Tạo, Thuyết Phục Hồi, hay Thuyết Phán Xét Thiêng Liêng. Mỗi một danh xưng nhấn mạnh luận điểm chính của học thuyết.
Nói cách vắn tắt, thuyết Lỗ Hỗng cho rằng chữ “là” (Sáng thế ký 1:2) có thể được dịch là “trở nên”. Đất được dựng nên hoàn hảo ở Sáng thế ký 1:1. Nhưng trong Sáng thế ký 1:2, đất bị coi là vô hình và trống không. Vì thế giữa Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2 có một khoảng thời gian trống rất lớn, một số thế kỷ không biết được. Giữa hai câu, có một việc gì đó đã xảy ra – một việc với những kết quả rất thê thảm. Điều chi chứ? Điều chi khiến cho địa cầu phải: ‘trở nên vô hình và trống không”? Chuyện thường được kể rằng sự sa ngã của Satan đã xảy ra vào thời điểm nầy, và sự loạn nghịch của hắn chống lại Đức Chúa Trời đã khiến cho sự phán xét thật thảm hại giáng xuống địa cầu. (Xem Êsai 14:12; đối chiếu Êxêchiên 28:12). Vì thế Sáng thế ký 1:1 mô tả một sự sáng tạo rất hoàn hảo , và Sáng thế ký 1:2 mô tả những gì đã xảy ra cho địa cầu sau khi sự phán xét quan trọng giáng xuống trên nó. Sáng thế ký 1:3 bắt đầu sự tái tạo địa cầu bởi Thần của Đức Chúa Trời, Ngài đã lỡn vỡn trên mặt đất. Có vài cuộc bàn bạc thường ủng hộ tình trạng nầy:
Từ ngữ “là” có thể được dịch “trở thành”. Vì lẽ đó, hai câu nầy nên đọc là:
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. Vả, đất [trở nên] vô hình và trống không [trống trải]” (Sáng thế ký 1:1-2).
Kinh thánh nói rõ rằng địa cầu được dựng nên “chẳng phải được dựng nên là trống không [như một sự phung phí]”. Địa cầu phải phản ảnh chính sự hoàn hảo của bổn tánh Đức Chúa Trời, sự vinh hiển và oai nghi hoàn hảo của Ngài. Sự bàn bạc hợp lý nầy cũng nói thêm: một Đức Chúa Trời hoàn hảo và yêu thương không thể dựng nên một vũ trụ bất toàn. Một Đức Chúa Trời hoàn hảo và yêu thương chỉ có thể dựng nên một thế giới hoàn hảo
“Vì Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các từng trời, tức là Đức Chúa Trời đã tạo thành đất và làm ra nó, đã lập nó cho bền vững, chẳng phải dựng nên là trống không [trống trải, như một sự phung phí], bèn đã làm nên để dân ở, phán như vầy: Ta là Đức Giê-hô-va, không có Đấng nào khác!” (Êsai 45:18).
Kinh thánh dạy rằng Satan (Lucifer) là thiên sứ được tôn cao nhất trên trời, Đức Chúa Trời đã dựng nên hắn để cai trị trong vai trò tạo vật cao cả nhất trong muôn vật được dựng nên. Nhưng Satan đã làm cùng một việc mà bao người đã làm: hắn đã phạm tội và sa ngã. Hắn đã nổi loạn chống nghịch Đức Chúa Trời. Vì lẽ đó, giống như con người bị trục xuất ra khỏi vườn Êđen, cũng vậy Satan đã bị đuổi ra khỏi địa vị được tôn trọng trước mặt Đức Chúa Trời. Và giống như con người cần phải đối mặt với sự phán xét đời đời của Đức Chúa Trời, thì Satan cũng một thể ấy. Satan cần phải bị xét đoán với cõi đời đời trong địa ngục – không bao lâu nữa, không bao lâu nữa, giống như hết thảy những ai chối bỏ Đức Chúa Trời cần phải bị xét đoán.
Satan bị đuổi ra khỏi địa vị đáng tôn của mình trước mặt Đức Chúa Trời vào lúc nào? Lý thuyết Lỗ Hỗng nói trong cõi quá khứ không tính được, đâu đó trong các thời đại giữa Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2. Và sự sa ngã của Satan đã gây ra một sự phán xét thê thảm giáng xuống đất. Hiển nhiên, một phần trong quyền cai trị của hắn là địa cầu và vũ trụ vật chất. Vì lẽ đó, khi sự phán xét giáng trên Satan, sự phán xét cũng sẽ giáng trên mọi sự hắn đang cai trị, bao gồm cả địa cầu. Chính khi ấy địa cầu trở nên “vô hình và trống không [trống trải, như một sự phung phí]” (Sáng thế ký 1:2).
“Hỡi sao mai, con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời sa xuống! Hỡi kẻ giày đạp các nước kia, ngươi bị chặt xuống đất là thể nào! Ngươi vẫn bụng bảo dạ rằng: Ta sẽ lên trời, sẽ nhắc ngai ta lên trên các ngôi sao Đức Chúa Trời. Ta sẽ ngồi trên núi hội về cuối cùng phương bắc. Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao. Nhưng ngươi phải xuống nơi âm phủ, sa vào nơi vực thẳm!” (Êsai 14:12-15).
“Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy: Hỡi con người, hãy làm một bài ca thương về vua Ty-rơ và nói cùng người rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi gồm đủ tất cả, đầy sự khôn ngoan, tốt đẹp trọn vẹn. Ngươi vốn ở trong Ê-đen, là vườn của Đức Chúa Trời. Ngươi đã có đầy mình mọi thứ ngọc báu, là ngọc mã não, ngọc vàng lợt, ngọc kim cương, ngọc thủy thương, ngọc sắc biếc, ngọc bích, ngọc sắc chàm, ngọc sắc xanh, ngọc thông hành, cùng vàng nữa. Nghề làm ra trống cơm ống sáo thuộc về ngươi; từ ngày ngươi mới được dựng nên đã sắm sẵn rồi. Ngươi là một chê-ru-bin được xức dầu đang che phủ; ta đã lập ngươi lên trên hòn núi thánh của Đức Chúa Trời; ngươi đã đi dạo giữa các hòn ngọc sáng như lửa. Đường lối ngươi trọn vẹn từ ngày ngươi được dựng nên, cho đến lúc thấy sự gian ác trong ngươi. Nhân ngươi buôn bán thạnh lợi, lòng ngươi đầy sự hung dữ, và ngươi đã phạm tội; vậy ta đã xô ngươi như là vật ô uế xuống khỏi núi Đức Chúa Trời; hỡi chê-ru-bin che phủ kia, ta diệt ngươi giữa các hòn ngọc sáng như lửa! Lòng ngươi đã kiêu ngạo vì sự đẹp ngươi, và sự vinh hiển của ngươi làm cho ngươi làm hư khôn ngoan mình. Ta đã xô ngươi xuống đất, đặt ngươi trước mặt các vua, cho họ xem thấy. Ngươi đã làm ô uế nơi thánh ngươi bởi tội ác ngươi nhiều quá và bởi sự buôn bán ngươi không công bình; ta đã khiến lửa ra từ giữa ngươi; nó đã thiêu nuốt ngươi, và ta đã làm cho ngươi trở nên tro trên đất, trước mặt mọi kẻ xem thấy” (Êxêchiên 28:11-18)
.
Kinh thánh dạy rằng Satan đã cai trị ở trên đất: hắn đã tiếp cận để ảnh hưởng thế gian và con người. Lịch sử, sự hủy diệt, sự tàn phá thiên nhiên và sự gian ác của con người cho thấy rằng lãnh vực của Satan bao gồm cả địa cầu, ít nhất ở một cấp độ nào đó. Đức Chúa Trời nhất định không dựng nên vũ trụ và rồi đặt Satan cùng các thế lực gian ác của hắn nắm quyền lãnh đạo ở đó. Điều nầy tuyệt đối mâu thuẫn với bổn tánh của Đức Chúa Trời. Vì lẽ đó, sự sa ngã và sự cai trị của Satan trên đất đã diễn ra sau khi địa cầu và vũ trụ được dựng nên. Một lần nữa, thời điểm duy nhứt cho điều nầy đã diễn ra giữa Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2. Đức Chúa Trời đã dựng nên các từng trời và đất rất hoàn hảo, và rồi khi Satan sa ngã, địa cầu “trở nên vô hình và trống không” vì nó ở dưới quyền thống trị của Satan. (Xem Nghiên Cứu #1, Satan – Khải huyền 12:9 để thảo luận).
+ Kinh thánh gọi Satan là chúa đời nầy.
“Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất cho những kẻ hư mất, cho những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời” (II Côrinhtô 4:3-4).
+ Kinh thánh gọi Satan là vua chúa thế gian nầy.
“Hiện bây giờ, có sự phán xét thế gian nầy, và hiện nay vua chúa của thế gian nầy phải bị xua đuổi” (Giăng 12:31).
“Ta sẽ chẳng nói chi với các ngươi nữa, vì vua chúa thế gian nầy hầu đến; người chẳng có chi hết nơi ta” (Giăng 14:30).
“về sự phán xét, vì vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét” (Giăng 16:11).
+ Kinh thánh gọi Satan là vua cầm quyền chốn không trung.
“đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung tức là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch” (Êphêsô 2:2).
+ Kinh thánh gọi Satan là vua chúa của thế gian mờ tối.
“Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy” (Êphêsô 16:12).
+ Satan là vua của một nước.
“Nếu quỉ Sa-tan trừ quỉ Sa-tan, ấy là tự nó chia xé nhau; thì nước nó làm sao còn được ư?” (Mathiơ 12:26).
“Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy; mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy” (Mathiơ 4:8-9).
+ Satan có cái nắm bắt của hắn trên cả thế gian
“Chúng ta biết mìnhthuộc về Đức Chúa Trời, còn cả thế gian đều phục dưới quyền ma quỉ” (I Giăng 5:19).
Địa cầu tỏ ra một số dấu hiệu cho thấy rằng nó đã gánh chịu một số khổ nạn trong thời kỳ tiền lịch sử. Hầu hết chúng ta đều đã nhìn thấy các hình ảnh hay đọc thấy các loài thú sống trong thời kỳ tiền lịch sử được tìm thấy bị đông lạnh với các chi thể hãy còn nguyên vẹn. Rõ ràng chúng đã gánh chịu một tai vạ nào đó ngay lập tức giáng trên chúng, làm cho chúng đông lạnh lại bằng không các chi thể của chúng sẽ bị hư hoại đi. Điều nầy chỉ ra một tai vạ bất ngờ và ngay tức khắc đã giáng xuống mà thế giới động vật không lường biết được. Sự sa ngã của Satan sẽ giải thích thảm họa đó.
Cụm từ: “vô hình và trống không” (tohu và bohu) được dùng chung với nhau chỉ ở hai chỗ (Êsai 34:11; Giêrêmi 4:23). Trong cả hai trường hợp, chúng chỉ ra một tình trạng mà sự phán xét của Đức Chúa Trời đã mang lại. Vì lẽ đó, cần phải khẳng định rằng, chúng ta phải kết luận địa cầu đã trở nên “vô hình và trống không” ở đây trong Sáng thế ký 1:2 vì cớ sự phán xét của Đức Chúa Trời. Sự phán xét duy nhứt trong thời kỳ tiền lịch sử đã được Kinh thánh tỏ ra là sự phán xét của Satan khi hắn sa ngã.
Lỗ hỗng, khoảng thời gian không xác định được giữa Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2, có thể được dùng để giải thích những khám phá khoa học chỉ ra địa cầu trong thời kỳ tiền lịch sử. Những khám phá các động vật và thực vật hóa thạch thuộc thời kỳ tiền lịch sử, và nhiều thế kỷ có cần cho trầm tích khoáng sản phát triển – mọi điều nầy có thể được giải thích như đã diễn ra trong các kỷ nguyên giữa Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2.
Địa cầu phải được dựng nên hoàn hảo vì một Đức Chúa Trời hoàn hảo đang dựng nên nó. Một Đức Chúa Trời hoàn hảo không bao giờ dựng nên bất cứ điều chi “vô hình và trống không”.
Cấu trúc của câu chuyện sáng tạo biệt riêng Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2 ra khỏi các phần khác trong câu chuyện sáng tạo. Sáng thế ký 1:1-2 chỉ khác biệt với Sáng thế ký 1:3-31, khác biệt quan trọng.
Sáng thế ký 1:3 là chỗ bảy ngày sáng tạo bắt đầu, chớ không phải các câu 1 và 2.
Sáng thế ký 1:3 là chỗ Kinh thánh bắt đầu công bố rằng “Đức Chúa Trời phán”, và là chỗ sáu ngày sáng tạo bắt đầu. Và hãy chú ý mỗi ngày sáng tạo đều bắt đầu với chính cụm từ: “Đức Chúa Trời phán” (Sáng thế ký 1:3, 6, 9, 14, 20, 24). Điều nầy phân biệt sự sáng tạo cụ thể vũ trụ đối với Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2 – thật rõ rệt – theo lý thuyết Lỗ Hỗng.
Mỗi ngày sáng tạo cũng khác biệt bởi những gì được nói ra lúc kết thúc ban ngày sáng tạo. Hãy chú ý cụm từ: “"Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhất [thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu]" (
Sáng thế ký 1:5, 8, 13, 19, 23, 31).
Chính cấu trúc của câu chuyện sáng tạo chỉ ra hai sự sáng tạo khác nhau về vũ trụ. Sáng thế ký 1:1 và Sáng thế ký 1:2 được cho là bản tường trình về sự sáng tạo nguyên thủy, và Sáng thế ký 1:3-23 cung ứng bản tường trình nói tới sự tái tạo địa cầu sau khi sự phán xét tai vạ giáng xuống đất.
Kinh thánh phán rằng Đức Chúa Trời đã dặn dò con người phải: “Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất” (Sáng thế ký 1:28). Hãy chú ý từ ngữ: “làm cho đầy dẫy đất”. Làm cho đầy dẫy có nghĩa là làm cho đầy tràn trở lại, định cư lại, chớ không phải định cư lần đầu tiên đâu.
Kinh thánh phán rằng khi các nền thế gian được đặt: “Trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau, Và các con trai Đức Chúa Trời cất tiếng reo mừng” (Gióp 38:7). Một địa cầu chưa phát triển và chưa có hình thù sẽ không phải là cái cớ cho việc hát lên một bài ca, cũng không phải là cớ cho sự vui mừng trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, trong sự khôn ngoan và quyền phép tối thượng của Ngài.