Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

Mathiơ 4:18-22: "Các Môn Đồ Của Chúa Jêsus: Loại Người được GỌi"

Mathiơ 4:18-22: “Khi Ngài đang đi dọc theo mé biển Ga-li-lê, thấy hai anh em kia, là Si-môn, cũng gọi là Phi-e-rơ, với em là Anh-rê, đang thả lưới dưới biển, vì hai anh em vốn là người đánh cá. Ngài phán cùng hai người rằng: Các ngươi hãy theo ta, ta sẽ cho các ngươi nên tay đánh lưới người. Hai anh em liền bỏ lưới mà theo Ngài. Từ đó đi một đỗi xa xa nữa, Ngài thấy hai anh em khác, là Gia-cơ, con của Xê-bê-đê, với em là Giăng, đang cùng cha mình là Xê-bê-đê vá lưới trong thuyền; Ngài bèn gọi hai người. Tức thì hai người đó bỏ thuyền và cha mình mà theo Ngài”.
B.Các môn đồ của Chúa Jêsus: Loại người được gọi, 4:18-22
(Mác 1:16-20; đối chiếu Luca 5:1-11; Giăng 1:35-51)
1 Những người đầu tiên được kêu gọi (các câu 18-20):
a. là anh em, họ cùng làm việc với nhau (câu 18a)
b. là nhân công siêng năng (câu 18b)
c. được kêu gọi đi theo Chúa Jêsus — ngay lập tức (câu 19a)Xem:NC1
d. được kêu gọi đến với công việc khác (câu 19b)
e. đã đáp ứng (câu 20)
2 Những người thứ nhì được kêu gọi (các câu 21-22):
a. là con cái vâng phục đang làm việc với cha của họ — vá lưới (câu 21a)
b. là hạng người siêng năng, cần kiệm (câu 21b)
c. được kêu gọi rất đơn sơ (câu 21c)
d. đã đáp ứng: Rời khỏi sinh kế và gia đình của họ (câu 22)

MATHIƠ: PHẦN III
BẮT ĐẦU CHỨC VỤ CỦA ĐẤNG MÊSI, 4:12-25

B.Các môn đồ của Chúa Jêsus: Loại người được kêu gọi, 4:18-22
(4:18-22) Phần giới thiệu: Đấng Christ kêu gọi loại người nào? Phân đoạn nầy cho thấy Đấng Christ kêu gọi hạng người tầm thường, họ sẽ tự mình ra hữu dụng cho Ngài.
Hãy chú ý nơi Chúa Jêsus kêu gọi các môn đồ đầu tiên. Họ không ở tại trung tâm tôn giáo hay một trung tâm giáo dục. Họ cũng không ở trong chỗ địa vị quyền thế, họ cũng không ở trong chỗ giàu có hay an ninh về tài chính. Họ có mặt trong thế giới kiếm sống từng ngày một. Điều nầy không phải là bỏ qua tầm quan trọng của tôn giáo hay giáo dục, mà nó dạy dỗ ít nhất là hai việc.
Thứ nhứt, địa vị và quyền thế, giàu có và sự an ninh, tôn giáo và học vấn có thể gây hại và giữ một người xa cách đối với Đức Chúa Trời. Những việc như thế có thể làm cho một người ra tự tín và dám chắc đến nỗi người ấy sẽ ra vô ích cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không thể thực hiện quyền phép của Ngài qua người. Mọi khả năng và năng lực riêng của con người ngăn trở mọi ân tứ và quyền phép của Đức Chúa Trời không tuôn tràn qua người được.
Thứ hai, Đức Chúa Trời có thể sử dụng và kêu gọi bất cứ người nào thực sự sẵn sàng, dù tôn giáo hay phi tôn giáo, có học hay vô học, tầm thường hay phi thường. Yếu tố chính là phải sẵn sàng và bằng lòng đáp ứng.
1 Những người đầu tiên được kêu gọi (các câu 18-20):
a. là anh em, họ cùng làm việc với nhau (câu 18a)
b. là nhân công siêng năng (câu 18b)
c. được kêu gọi đi theo Chúa Jêsus — ngay lập tức (câu 19a) Xem:NC1
d. được kêu gọi đến với công việc khác (câu 19b)
e. đã đáp ứng (câu 20)
2 Những người thứ nhì được kêu gọi (các câu 21-22):
a. là con cái vâng phục đang làm việc với cha của họ — vá lưới (câu 21a)
b. là hạng người siêng năng, cần kiệm (câu 21b)
c. được kêu gọi rất đơn sơ (câu 21c)
d. đã đáp ứng: Rời khỏi sinh kế và gia đình của họ (câu 22)

1. (4:18-20) Kêu gọi — Chức vụ — Địa vị môn đồ: những người đầu tiên được kêu gọi. Năm dấu hiệu được thấy nơi hạng người nầy, những dấu hiệu chỉ ra loại người được Đấng Christ kêu gọi.
1.Người được Đấng Christ kêu gọi là anh em ruột, họ cùng làm việc với nhau. Sự thực cho thấy rằng họ cùng nhau làm việc nói tới ít nhất ba điều:
a.Họ có bố mẹ nhơn đức, là những người dạy dỗ họ biết yêu thương và quan tâm đến nhau.
b.Họ xuất thân từ một gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau, một gia đình cùng nhau lao động.
c.Họ làm theo và vâng phục sự dạy dỗ của bố mẹ họ và giữ lấy một tinh thần anh em trong cuộc sống.

Tư tưởng 1. Tinh thần anh em và cộng tác của các môn đồ cho chúng ta thấy ba việc.
1) Nhu cần về tinh thần anh em — loại tinh thần mà Đấng Christ mong muốn có nơi các môn đồ Ngài. Loại vương quốc của Đấng Christ đang xây dựng là một vương quốc các môn đồ với tinh thần anh em.

"Còn điều răn thứ hai đây, cũng như vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình" (Mathiơ 22:39).
"Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta" (Giăng 13:35).
"Điều răn của ta đây nầy: Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi" (Giăng 15:12).
"Hãy lấy lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em; hãy lấy lẽ kính nhường nhau" (Rôma 12:10).
"Anh em đã vâng theo lẽ thật làm sạch lòng mình, đặng có lòng yêu thương anh em cách thật thà, nên hãy yêu nhau sốt sắng hết lòng" (I Phierơ 1:22).

2) Nhu cần về việc đến với các gia đình vì Đấng Christ: các anh chị em đến với nhau.

"Trước hết người gặp anh mình là Si-môn, thì nói rằng: Chúng ta đã gặp Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ). Người bèn dẫn Si-môn đến cùng Đức Chúa Jêsus. Ngài vừa ngó thấy Si-môn, liền phán rằng: Ngươi là Si-môn, con của Giô-na; ngươi sẽ được gọi là Sê-pha (nghĩa là Phi-e-rơ)" (Giăng 1:41-42).
"Người cha nhận biết rằng ấy là chính giờ đó Đức Chúa Jêsus đã phán cùng mình rằng: Con của ngươi sống; thì người với cả nhà đều tin" (Giăng 4:53).
"Khi người đã chịu phép báp-tem với người nhà mình rồi, thì xin chúng ta rằng: Nếu các ông đã đoán tôi là trung thành với Chúa, thì hãy vào nhà tôi, mà ở lại đó; rồi người ép mời vào" (Công Vụ các Sứ Đồ 16:15).
"Đoạn, đưa hai người ra ngoài, mà hỏi rằng: Các chúa ơi, tôi phải làm chi cho được cứu rỗi? Hai người trả lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi" (Công Vụ các Sứ Đồ 16:30-31).

3) Nhu cần về bố mẹ dạy dỗ con cái theo đường lối mà chúng phải bước đi (xem bố cục — Êphêsô 6:1-4 và chú thích — Êphêsô 6:1-4; chú thích — Côlôse 3:20-21).

"khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy" (Phục truyền luật lệ ký 6:7).
"Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó" (Châm ngôn 22:6).
"Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó" (Êphêsô 6:4).

Tư tưởng 2. Có phần quan trọng trong việc phục vụ Đấng Christ phải được nhấn mạnh đến giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời: sự cộng tác — một bổn tánh và sự bằng lòng cùng nhau phục vụ (xem bố cục — I Côrinhtô 12:12-31 và chú thích — I Côrinhtô 12:12-31).

"Kế đó, Ba-na-ba đi đến thành Tạt-sơ, để tìm Sau-lơ, tìm gặp rồi, bèn đưa đến thành An-ti-ốt. Trọn một năm, hai người cùng nhóm với Hội-thánh và dạy dỗ nhiều người. Ay là ở thành An-ti-ốt, người ta bắt đầu xưng môn đồ là Cơ-rê-tiên" (Công Vụ các Sứ Đồ 11:25-26).
"Vả, tôi mong rằng nhờ ơn Đức Chúa Jêsus, kíp sai Ti-mô-thê đến cùng anh em, để tới phiên tôi, tôi nghe tin anh em, mà được yên lòng. Thật vậy, tôi không có ai như người đồng tình với tôi để thật lòng lo về việc anh em" (Philíp 2:19-20).

2. Hạng người mà Đấng Christ kêu gọi là hạng công nhân cần cù. Hãy chú ý thể nào Phierơ và Anhrê bận rộn làm việc khi Đấng Christ kêu gọi họ. Đây là yếu tố cần thiết thứ nhì cho sự phục vụ Đấng Christ cần phải được nhấn mạnh: năng lực, siêng năng, và thái độ bằng lòng làm việc và chịu khó làm việc. Khi Đấng Christ kêu gọi một người, người ấy đang làm việc, chớ chẳng ngồi không. Đức Chúa Trời không chọn kẻ biếng nhác và không hoạt động, mà chọn người có năng lực và siêng năng. Có quá nhiều tín hữu đang ngồi không và không hoạt động. Vì lẽ đó, họ lơ là đối với sự kêu gọi cao cả hơn của Đức Chúa Trời.

"A-mốt trả lời cho A-ma-xia rằng: Ta không phải là đấng tiên tri, cũng không phải con đấng tiên tri; nhưng ta là một kẻ chăn, sửa soạn những cây vả rừng. Đức Giê-hô-va đã bắt lấy ta từ sau bầy, và Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hãy đi nói tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên ta" (Amốt 7:14-15).
"Từ đó, Ê-li đi, gặp Ê-li-sê, con trai của Sa-phát đang cày có mười hai đôi bò trước mặt mình, chính người cầm đôi thứ mười hai. Ê-li đi ngang qua người, ném áo choàng mình trên người" (I Các Vua 19:19).
"Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu" (I Côrinhtô 15:58).
"Ấy cũng như một người kia đi đường xa, bỏ nhà, giao cho đầy tớ mỗi đứa cai quản một việc, và cũng biểu đứa canh cửa thức canh" (Mác 13:34).
"Vậy, Ngài phán rằng: Có một vị thế tử đi phương xa, đặng chịu phong chức làm vua rồi trở về; bèn gọi mười người trong đám đầy tớ mình, giao cho mười nén bạc, và dạy rằng: Hãy dùng bạc nầy sanh lợi cho đến khi ta trở về" (Luca 19:12-13).

3. Hạng người Đấng Christ kêu gọi theo Ngài và họ cần phải theo Ngài ngay lập tức. Mục đích là đây: môn đồ được kêu gọi theo Đấng Christ một cách riêng tư, tự mình gắn bó với Đấng Christ trước khi người làm bất cứ chuyện gì khác. Làm môn đồ theo cách riêng, nghĩa là, gắn bó riêng tư, là điều quan trọng (xem chú thích — Mathiơ 28:19-20). Một người trước tiên phải học hỏi về Đấng Christ trước khi người có thể phục vụ Đấng Christ.

Tư tưởng 1. Sự kêu gọi của Chúa là đến với mối quan hệ cá nhân, trở nên gắn bó với Ngài.

"Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi là kẻ làm chứng ta, và là đầy tớ ta đã chọn, hầu cho các ngươi được biết và tin ta, và hiểu rằng ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước ta, và cũng chẳng có sau ta nữa" (Êsai 43:10).
"Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi luật pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết" (Philíp 3:8-11).

Tư tưởng 2. Các môn đồ, mặc dù ít học, được cung cứng cho ba năm huấn luyện ở chỗ tốt nhứt trên thế gian. Họ đã được dạy dỗ bởi chính mình Đấng Christ, là con của Đức Chúa Trời. Mỗi tín hữu đều cần phải ở riêng với Đấng Christ và thường xuyên làm việc ấy, học hỏi và suy gẫm về Ngài và Lời của Ngài.

"Hãy chuyên tâm cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời như người làm công không chỗ trách được, lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (II Timôthê 2:15).
"Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước" (Giôsuê 1:8).

4. Hạng người được Đấng Christ kêu gọi để làm công việc khác. Đây là sự kêu gọi đến với một công việc hoàn toàn khác, đến với một công việc và nghề nghiệp khác. Đây là một sự thay đổi rất quyết liệt. Hãy chú ý một vài sự kiện.
a. Sự kêu gọi đến với một mối quan hệ cá nhân đã được phát ra rồi. Giăng nói cho chúng ta biết điều nầy (Giăng 1:35-42). Một mối quan hệ cá nhân phải luôn được nhấn mạnh trước khi bắt tay phục vụ.
b. Sự kêu gọi nầy, sự kêu gọi để "đánh lưới người", là một sự kêu gọi phải phục vụ. Đây là sự kêu gọi phải quan tâm đến con người, giúp đỡ và phục vụ họ. Không một sự kêu gọi nào lớn lao hơn đến với một người, để giúp đỡ cho người khác là hành động quan trọng nhất trong mọi sự của cuộc sống. Hãy hình dung một người dâng chính bản thân mình chẳng cho cái gì khác ngoài việc phục vụ và giúp đỡ cho tha nhân. Có ơn kêu gọi nào lớn hơn không? (Đối chiếu Mathiơ 20:26; Mác 10:43; Luca 9:48).
c. Sự kêu gọi là phải tách rời hoàn toàn và ngay lập tức đối với mọi sự khác và phải gắn bó ngay tức khắc với Chúa Jêsus và sứ mệnh của Ngài (xem Nghiên Cứu #1 — Mathiơ 4:19).

"Ngài phán cùng hai người rằng: Các ngươi hãy theo ta, ta sẽ cho các ngươi nên tay đánh lưới người" (Mathiơ 4:19).
"Hãy trách phạt những kẻ nầy, là kẻ trù trừ, hãy cứu vớt những kẻ kia, rút họ ra khỏi lửa; còn đối với kẻ khác, hãy có lòng thương lẫn với sợ, ghét cả đến cái áo bị xác thịt làm ô uế" (Giuđe 22-23).
"Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: lại cũng cho mọi điều các ngươi sẽ nhân danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi" (Giăng 15:16).
"Nhưng Chúa phán rằng: Hãy đi, vì ta đã chọn người nầy làm một đồ dùng ta, để đem danh ta đồn ra trước mặt các dân ngoại, các vua, và con cái Y-sơ-ra-ên" (Công Vụ các Sứ Đồ 9:15).
"Đoạn, tôi nghe tiếng Chúa phán rằng: Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta? Tôi thưa rằng: Có tôi đây; xin hãy sai tôi" (Êsai 6:8).

Tư tưởng 1. Sự kêu gọi của Chúa có hai phần.
1) Bước theo Ngài, Đấng Mêsi. Trước khi làm bất cứ điều chi khác, một người môn đồ trước tiên phải học biết về Đấng Christ.
2) Để trở thành tay đánh lưới người.

Tư tưởng 2. Đấng Christ sử dụng sự kêu gọi một người đến với sự hiểu biết và kinh nghiệm con người. Những ngư phủ nầy được kêu gọi "đi đánh lưới người".
1) Sự thực nầy khuấy đảo một độ tin cậy và ngăn trở sự e sợ việc tiếp nhận ơn kêu gọi của Đấng Christ. Nghĩa là Đấng Christ luôn luôn xem xét tri thức và kinh nghiệm của một người khi Ngài kêu gọi người ấy.
2) Sự thực nầy cũng giúp cho một người phục vụ hiệu quả và trọn vẹn hơn — để hoàn thành nhiều việc hơn cho Đức Chúa Trời.

5. Hạng người được Đấng Christ kêu gọi luôn đáp ứng. Họ đã đáp ứng ngay tức khắc.

Tư tưởng 1. Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời rất cụ thể và đòi hỏi một quyết định.
1) Đáp ứng ngay tức khắc — ngay bây giờ! Một người chổi dậy ngay bây giờ, chớ không phải ngày mai (xem bố cục — Luca 9:57-62. Đây là một hình ảnh rất hay về một người thoái thác đối với ơn kêu gọi).
2) Đáp ứng ấy rất rõ ràng. Ơn ấy đòi hỏi một đáp ứng tích cực — ngay tức khắc. Đáng buồn làm sao khi nhiều người được gọi, song có ít người được chọn.

"Đó, những kẻ rốt sẽ nên đầu và kẻ đầu sẽ nên rốt là như vậy! Vì nhiều người được gọi, song ít người được chọn" (Mathiơ 20:16).
"Ngài phán cùng kẻ khác rằng: Ngươi hãy theo ta. Kẻ ấy thưa rằng: Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã. Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao giảng nước Đức Chúa Trời. Có kẻ khác nữa thưa rằng: Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước về từ giã người trong nhà tôi. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời" (Luca 9:59-62).

NGHIÊN CỨU #1(4:19) Chức năng môn đồ — Kêu gọi: đây là sự kêu gọi để phục vụ. Phierơ và Anhrê đã được kêu gọi làm môn đồ rồi (Giăng 1:35-42). Tư tưởng là tẻ tách hoàn toàn ra khỏi mọi sự ngay tức thì. Mathiơ nhấn mạnh sự kêu gọi đến với sứ mệnh hay công việc chính thức của Chúa. Mác nhấn mạnh sự kêu gọi đến với một đời sống được thay đổi: "Trở nên tay đánh lưới người" (Mác 1:17). Luca nhấn mạnh sự kêu gọi đến với một nghề nghiệp khác (Luca 5:10). Giăng nhấn mạnh sự kêu gọi đến với một mối quan hệ cá nhân (Giăng 1:40-42).

2. (4:21-22) Kêu gọi — Phục vụ — Chức vụ môn đồ: những người thứ nhì được gọi. Bốn dấu hiệu được thấy nơi những người nầy, các dấu hiệu cũng tỏ ra hạng người nào được Đấng Christ kêu gọi.
1. Họ là con cái biết vâng lời lao động với cha của họ. Họ xuất thân từ một gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau, và một gia đình gắn bó chặt chẽ có một ảnh hưởng quan trọng trên đời sống của con cái của nó. Mục đích, ấy là sự vâng lời rất quan trọng, cả hai: con cái và tôi tớ (xem bố cục — Êphêsô 6:1-3 và chú thích — Êphêsô 6:1-3).

"Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm. Hãy tôn kính cha mẹ ngươi (ấy là điều răn thứ nhất, có một lời hứa nối theo)" (Êphêsô 6:1-2).
"Nhưng nếu bà góa có con hoặc cháu, thì con cháu trước phải học làm điều thảo đối với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ; vì điều đó đẹp lòng Đức Chúa Trời" (I Timôthê 5:4).
"Ai nấy phải tôn kính cha mẹ mình và giữ những ngày sa-bát ta: Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi" (Lêvi ký 19:3).
"Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên hòn đá" (Mathiơ 7:24).
"Vì hễ ai làm theo ý muốn Cha ta ở trên trời, thì người đó là anh em, chị em ta, cùng là mẹ ta vậy" (Mathiơ 12:50).
"Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ai yêu mến ta, thì vâng giữ lời ta, Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người" (Giăng 14:23).

2. Họ rất cần cù và siêng năng. Hãy chú ý, họ đang vá lưới, sử dụng những gì họ có thay vì chạy tìm những tấm lưới mới. Mục đích, ấy là Đức Chúa Trời không quan tâm đến sự lãng phí. Người mà Đức Chúa Trời kêu gọi phải cần cù, siêng năng, chớ không được hoang phí.

"Khi chúng đã ăn được no nê, Ngài phán với môn đồ rằng: Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào" (Giăng 6:12).
"Kẻ biếng nhác không chiên nướng thịt mình đã săn; Song người siêng năng được tài vật quí báu của loài người" (Châm ngôn 12:27).
"Có bửu vật và dầu trong nhà người khôn ngoan; Nhưng kẻ ngu muội nuốt nó đi" (Châm ngôn 21:20).

3. Họ được kêu gọi rất đơn sơ. Chẳng có gì ngoạn mục nơi sự kêu gọi của họ. Một kinh nghiệm ngoạn mục là không cần thiết khi đến với họ.

Tư tưởng 1. Có người nhận được sự kêu gọi rất đơn sơ, nhưng họ được kêu gọi tương đương với những người nhận được ơn kêu gọi ngoan mục. Ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời xứng với bổn tánh và các nhu cần của một người. Ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời xem xét mọi nhu cần của một người về tình cảm, trí khôn, thể chất, và tâm linh. Có người cần nhiều tình cảm hơn những người khác. Có người cần sự kêu gọi theo lý trí.

"Đức Giê-hô-va phán: Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau. Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên" (Êsai 1:18).
"Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và người nào không có tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu và sữa mà không cần tiền, không đòi giá" (Êsai 55:1).
"Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ" (Mathiơ 11:28).
"Thánh Linh và vợ mới cùng nói: Hãy đến! Kẻ nào nghe cũng hãy nói rằng: Hãy đến! Ai khát, khá đến. Kẻ nào muốn, khá nhận lấy nước sự sống cách nhưng không" (Khải huyền 22:17).

4. Họ chịu đáp ứng; họ lìa bỏ kế sanh nhai và gia đình.

Tư tưởng 1. Có người được kêu gọi phải từ bỏ nhiều thứ. Có người không những từ bỏ công việc làm ăn, mà còn phải từ bỏ cha mẹ mình nữa. Trong một số trường hợp ơn kêu gọi nầy bao gồm cả sự bắt bớ và thậm chí sự đe dọa chết chóc nữa.

"Anh sẽ nộp em cho bị giết, cha sẽ nộp con cho bị giết, con cái sẽ dấy lên nghịch cùng cha mẹ mà làm cho người phải chết đi" (Mathiơ 10:21).
"Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo ta, cũng không được làm môn đồ ta" (Luca 14:26-27).

Tư tưởng 2. Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời bao gồm một sự thay đổi đáng kể. Sự thay đổi ấy gồm: sự thay đổi cuộc sống và sự thay đổi nghề nghiệp chính nữa (xem bố cục — Luca 9:57-62; xem chú thích — Êphêsô 4:20-24; chú thích — Êphêsô 4:28. Đối chiếu Côlôse 3:22...).

"Phi-e-rơ liền thưa cùng Ngài rằng: Nầy, chúng tôi đã bỏ hết mà đi theo thầy" (Mác 10:28).
"Kế đó, Đức Chúa Jêsus ra ngoài, thấy một người thâu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi tại sở thâu thuế. Ngài phán cùng người rằng: Hãy theo ta! Lê-vi bỏ hết mọi sự, đứng dậy đi theo Ngài" (Luca 5:27-28).
"Như vậy, nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta" (Luca 14:33).
"Đức Chúa Jêsus phán rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người nào vì cớ nước Đức Chúa Trời mà bỏ nhà cửa, cha mẹ, anh em, vợ con, thì trong đời nầy được lãnh nhiều hơn, và đời sau được sự sống đời đời" (Luca 18:29-30).
"Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ" (Philíp 3:8).


Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Sáng thế ký 1:24-25: "Dựng Nên Các Loài Thú Đồng"

Sáng thế ký 1:24-25: “Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy. Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại, Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành”.

BỐ CỤC:

H. Ngày thứ sáu (Phần 1): Dựng nên các loài thú đồng, 1:24-25
1Lời của Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng (câu 24)
2Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng, tùy theo loại (câu 25a)
3 Đức Chúa Trời thấy sự sáng tạo của Ngài là "tốt lành" — làm tròn chức năng của nó (câu 25b)

SÁNG THẾ KÝ:PHẦN I
SỰ DỰNG NÊN CÁC TỪNG TRỜI VÀ ĐẤT, 1:1-2:3

H.Ngày thứ sáu (Phần 1): Sự dựng nên các loài thú đồng, 1:24-25
(1:24-25) Phần giới thiệu: Hãy nhớ tới địa cầu thuộc thời kỳ tiền lịch sử là thể nào. Địa cầu lúc nầy là địa cầu thuộc thời kỳ nguyên thủy: cả đất đều bị phủ với bóng tối tăm đen kịt và bị nước bao lấy, với những làn sóng thạnh nộ của một đại dương to lớn. Cũng có một lớp sương mù dày đặc, sương mù và mây thật dày, treo bên trên địa cầu, rõ ràng bề dày có tới vài trăm feet — dày đến nỗi nó không để cho một tia sáng nào từ mặt trời rọi đến chen vào được. Địa cầu thuộc thời kỳ nguyên thủy treo trong khoảng không chưa hoàn chỉnh và bất toàn, trống trơn và chẳng có kết quả chi hết. Song khi Đức Chúa Trời bắt đầu vận hành; Đức Chúa Trời bắt đầu dựng nên chính xác những gì cần thiết để nâng đỡ sự sống ở trên đất.
+Đức Chúa Trời dựng nên sự sáng (Sáng thế ký 1:3-5).
+Đức Chúa Trời dựng nên khoảng không (bầu khí quyển và khoảng không gian ngay phía bên trên địa cầu) (Sáng thế ký 1:6-8).
+Đức Chúa Trời dựng nên các nguồn nước (đại dương, sông rạch , hồ ao) và đất khô (các đại lục và quần đảo) (Sáng thế ký 1:9-10).
+Đức Chúa Trời dựng nên đời sống thực vật hay rau cỏ (Sáng thế ký 1:11-13).
+Đức Chúa Trời dựng nên và phân phối ánh sáng chiếu trên đất để định ngày và đêm, mùa màng và tháng năm (Sáng thế ký 1:14-19).
+Đức Chúa Trời dựng nên các loài vật sống trong nước và bay trên không (Sáng thế ký 1:20-23).
Giờ đây, chúng ta đến với ngày thứ sáu của cuộc sáng tạo, là ngày quan trọng nhất trong mọi ngày sáng tạo kia. Tại sao chứ? Vì Đức Chúa Trời giờ đây dựng nên các loài thú đồng và con người. Con người là đỉnh cao sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Một khi con người được dựng nên, Đức Chúa Trời sẽ chẳng dựng nên điều gì nữa. Nhưng con người chưa được dựng nên cho tới nửa ngày sau cùng đó. Trước khi dựng nên con người, địa cầu phải đầy dẫy và có nhiều thú đồng sinh sống. Đây là đề tài cần phải bàn bạc ngay bây giờ: "Ngày Thứ Sáu (Phần 1): Sự dựng nên các loài thú đồng".
1.Lời của Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng (câu 24).
2.Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng, tùy theo loại (câu 25).
3.Đức Chúa Trời thấy sự sáng tạo của Ngài là "tốt lành" — làm tròn chức năng của nó (câu 25).

1. (1:24) Các loài thú — Sự sáng tạo: Lời của Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng. Hãy chú ý năm sự kiện quan trọng.
1.Các loài thú được dựng nên từ đất: "Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống" (Sáng thế ký 1:24). Chính địa cầu sản sinh ra các loài thú: đất được truyền cho phải sanh ra các loài thú, mạng lịnh ra bởi Đức Chúa Trời. Cụm từ "sanh" (totse) có nghĩa là tạo ra, gây ra. Mấy từ nầy có ý nói gì? Ba sự kiện nầy cần phải lưu ý.
a.Đức Chúa Trời không phán Ngài sẽ sử dụng đất như thế nào để tạo ra các loài thú, không phải trong phân đoạn nầy. Trong phân đoạn đặc biệt nầy, Kinh thánh không nói đến cách thức đất tạo ra sự sống động vật. Mọi sự Đức Chúa Trời phán là: "Đất phải sanh các vật sống" (Sáng thế ký 1:24). Nhưng hãy chú ý điểm kế tiếp.
b.Kinh thánh nói rõ ràng: "Đức Chúa Trời làm nên các loài thú" (Sáng thế ký 1:25. Đối chiếu phần 5 bên dưới). Mọi lý thuyết nào chỉ ra các loài thú ra từ nguồn nào khác trừ Đức Chúa Trời hoàn toàn là sai lầm. Kinh thánh công bố rõ ràng: "Đức Chúa Trời làm nên các loài thú" (Sáng thế ký 1:24).
c.Kinh thánh nói rõ về cách thức đất đã đóng một vai trò trong sự sáng tạo của con người. Con người được dựng nên từ đất.

"Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người" (Sáng thế ký 2:7).

Thứ dựng nên con người được trình bày rất rõ ràng: "cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi" (Sáng thế ký 3:19). Đất là vật chất, vật liệu, các yếu tố, các loại hạt vật lý Đức Chúa Trời sử dụng trong việc dựng nên con người.
Mục đích là đây: đây là cách đất phục vụ Đức Chúa Trời trong việc dựng nên các loài thú đồng. Các loài thú đồng được dựng nên từ đất. Đất là vật liệu và vật chất, các yếu tố và các loại hạt vật lý Đức Chúa Trời sử dụng để hình thành và dựng nên các loài thú đồng. Thực vậy, Kinh thánh nói rất rõ vấn đề nầy:

"Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên các loài thú đồng, các loài chim trời" (Sáng thế ký 2:19).

Tư tưởng 1. Đất phục vụ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bảo đất phải "sanh" ra sự sống của thú đồng, và đất đã làm theo. Đất có phần việc rất, rất đặc biệt để làm theo Đức Chúa Trời — bởi sự ấn định của Đức Chúa Trời. Con người phải hầu việc Đức Chúa Trời càng hơn là dường nào. Phần việc của con người là phục vụ Đức Chúa Trời trong khi còn sống trên đất. Kinh thánh nói rất rõ về vấn đề nầy.

"Ngươi hãy hầu việc Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; Ngài sẽ ban ơn cho vật ăn uống của ngươi và tiêu trừ các bịnh hoạn giữa vòng ngươi" (Xuất Êdíptô ký 23:25).
"Vậy, hỡi Y-sơ-ra-ên, bây giờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đòi ngươi điều chi? há chẳng phải đòi ngươi kính sợ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, đi theo các đạo Ngài, hết lòng hết ý kính mến và phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi" (Phục truyền luật lệ ký 10:12).
"Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ, và mừng rỡ cách run rẩy" (Thi thiên 2:11).
"Như vậy, vì chúng ta có phần trong một nước không hay rúng động, nên hãy cảm ơn, hầu cho lấy lòng kính sợ hầu việc Đức Chúa Trời một cách đẹp lòng Ngài" (Hêbơrơ 12:28).

2.Các loài thú được dựng nên như những hữu thể sống, như các tạo vật không có tâm hồn. Hãy chú ý thứ được dựng nên: "các vật sống". Từ ngữ Hybálai nói tới tạo vật (nephesh) là hữu thể. Đức Chúa Trời dựng nên "hữu thể sống". Thú đồng là "hữu thể sống" (xem Nghiên Cứu #1, Hữu thể — Sáng thế ký 1:20 để thảo luận).
3.Các loài thú được dựng nên theo ba cấp.
+Súc vật (behemah): các loài vật nuôi trong nhà; là loài có thể được sử dụng phục vụ con người như trâu bò, lạc đà, ngựa, chó, chiên, và lừa.
+Côn trùng (remes): các loài vật nhỏ hơn trườn bằng bụng hay bò với đôi chân nhỏ. Loài trườn gồm có các loài như rắn, sâu bọ, kiến, và côn trùng.
+Thú rừng (chayyah haarets): các loài thú hoang, các loài vật dữ dằn như sư tử, gấu, sói, và voi.

Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của sự khôn ngoan. Đức Chúa Trời đã tập hợp các loài thú lại thành ba nhóm để con người có thể suy nghĩ về chúng thật tự nhiên. Chỉ hãy nghĩ đến số lượng, vẽ đẹp, và sự đa dạng của các loài thú. Số lượng, loại, hình dáng, bản tánh, và vẽ đẹp của chúng hết thảy đều nói tới sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.

"Ôi chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa" (Nêhêmi 9:6).
"Mọi người nghe đoạn, thì một lòng cất tiếng lên cầu Đức Chúa Trời rằng: Lạy Chúa, là Đấng dựng nên trời, đất, biển, cùng muôn vật trong đó" (Công Vụ các Sứ Đồ 4:24).

4.Các loài thú được dựng nên với năng quyền tái tạo "tùy theo loại". Điều nầy có nghĩa là mọi loài thú đồng có một số điều muốn nói...
+để giữ dòng giống của chúng, loại sự sống động vật của chúng.
+để sanh ra cùng loại sự sống động vật, cùng loại sự sống giống như bố mẹ chúng.
+để nhân giống chủng loài của chúng.
5.Các loài thú được dựng nên bởi Lời của Đức Chúa Trời, bởi quyền phép của Lời Ngài. Hãy chú ý cụm từ: "thì có như vậy". Khi Đức Chúa Trời phán với đất, đất sanh ra sự sống động vật. Những gì Đức Chúa Trời phán đều đã được thành. Những gì Ngài truyền ra đều được hiển hiện. Một khi Ngài đã phán, chẳng có gì ngăn chặn được việc dựng nên sự sống động vật.

"Công việc tay Ngài là chân thật và công bình; Các giềng mối Ngài đều là chắc chắn" (Thi thiên 111:7).
"Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm" (Thi thiên 115:3).
"Hỡi Đức Giê-hô-va, lời Ngài được vững lập đời đời trên trời" (Thi thiên 119:89).
"Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được" (Luca 1:37).

2. (1:25) Các loài thú — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng, mỗi thứ tùy theo loại. Tại sao Kinh thánh một lần nữa tuyên bố Đức Chúa Trời là nguồn của sự sống động vật? Tại sao nguồn gốc cứ phải được lặp đi lặp lại và được tái nhấn mạnh? Có ít nhất hai lý do.
1.Có nhu cần phải nhấn mạnh Đức Chúa Trời là chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể dựng nên các loài động vật ở trên đất. Sự sống động vật không những đã xảy ra. Chất liệu cơ bản của sự sống động vật không ra từ chỗ không không đâu, không phải từ các tế bào của động vật đâu, cũng không phải từ ADN của các loài động vật, cũng không phải bởi hydrogen của động vật, cũng không phải từ các phân tử của động vật. Dù bất cứ yếu tố cơ bản của sự sống động vật có là gì đi nữa — bất cứ gì con người khám phá là chất liệu cơ bản của sự sống, bất cứ gì là chất liệu thô và năng lực của sự sống có là gì đi nữa — chất liệu cơ bản không những đã bắt đầu hình thành và nắn đúc sự sống động vật. Sự sống động vật không những xảy ra...
+bởi cơ hội
+bởi ngẫu nhiên
+bởi một lực khách quan hay năng lượng đem lại các tế bào cơ bản và ADN cùng nhau hình thánh ra sự sống động vật.
+bởi một số định luật vật lý đã tồn tại rồi và mới bắt đầu hình thành sự sống động vật.
Sự sống động vật được Đức Chúa Trời dựng nên và chỉ bởi một mình Đức Chúa Trời. Bất cứ chất liệu cơ bản nào dựng nên sự sống động vật — bất cứ các thế lực và định luật thô nào tạo ra sự sống động vật — hết thảy chúng được dựng nên và được đưa vào vận hành bởi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời, bởi quyền phép của Lời toàn năng của Ngài, đã dựng nên sự sống động vật. Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời đã truyền cho đất phải sanh ra sự sống động vật.
2.Có nhu cần phải nhấn mạnh Đức Chúa Trời đã dựng nên các loài vật "tùy theo loại " của chúng và chỉ "tùy theo loại" của chúng. Hãy chú ý điều nầy được trình bày rõ ràng theo từng cấp trong ba cấp động vật. Đức Chúa Trời đã dựng nên...
+động vật hoang dã "tùy theo loại".
+động vật nuôi trong nhà "tùy theo loại".
+động vật bò sát "tùy theo loại".
Điều nầy có ý nói gì? Nó có ý nói rằng Đức Chúa Trời đã ban cho các loài vật quyền phép để tái tạo tùy theo loại của chúng. Hết thảy sự sống động vật có một số phương tiện...
+để duy trì giống loài của nó, loại sự sống động vật của nó.
+để tạo ra cùng loại sự sống động vật, cùng loại sự sống giống như động vật bố mẹ.
+để truyền giống đúng loài của nó.
Có phải điều nầy cũng có ý nói rằng các loài có thể sản sinh ra đúng loài của chúng? Có phải lý thuyết tiến hóa là sai? Nghĩa là không có và đã không có bất kỳ một trao đổi chéo nào giữa các loài? Cho đến thời hiện tại nầy, các mẫu hóa thạch của địa cầu không cho thấy có bất kỳ một trao đổi chéo nào giữa loài nầy đến loài kia. Các mẫu hóa thạch chỉ ra sự phát triển và thích ứng giữa một số loài động vật, nhưng chẳng có bất kỳ một khám phá nào chỉ ra sự phát triển từ loài nầy sang loài kia. Thực vậy, trường hợp cho thấy có sự ngược lại. Xương hóa thạch giờ đây được nghiên cứu hết thập niên nầy đến thập niên khác với kỷ thuật khoa học tiên tiến nhất, nhưng chẳng có một sự trao đổi chéo nào giữa các loài từng được tìm thấy. Thậm chí chẳng có sự phát triển tiệm tiến hay chuyển đổi chậm từ loài nầy sang loài kia. (Hãy in trong trí rằng sự phát triển và thích ứng trong vòng các loài hay các nhóm động vật nhất định đã được tìm thấy, song chẳng có trao đổi chéo gì hết). Những gì được tìm thấy là sự xuất hiện đột ngột các nhóm động vật chính, không phải sự phát triển tiệm tiến và trao đổi chéo. Giữa các nhóm loài chính chẳng có gì khác hơn là các lỗ hỗng cùng những mối liên kết sai sót nơi đại đa số chúng. Liệu các mối liên kết sai sót sẽ được tìm thấy không? Liệu mẫu hóa thạch hay bất kỳ khám phá nào khác từng phô bày đủ bằng chứng về sự trao đổi chéo, về sự phát triển tiệm tiến, giữa các loài cùng những nhóm động vật chính? Ba điểm chính chống lại điều nầy thật mạnh mẽ.
+Một trăm năm nghiên cứu chưa đủ khả năng để tìm ra bằng chứng quan trọng về sự phát triển tiệm tiến giữa các nhóm động vật chính. Chẳng có bằng chứng nào về sự trao đổi chéo giữa các loài động vật. Như được hỏi, liệu nghiên cứu hóa thạch có thể tạo ra bằng cớ như thế không? Có thể có bằng chứng không, sau khi nghiên cứu hơn 100 năm? Bằng chứng quan trọng về sự trao đổi chéo nhất định sẽ được khám phá trong lúc bây giờ. Nhưng các lỗ hỗng cùng những mối liên kết sai sót kia vẫn còn tồn tại.
+Nghiên cứu về sự sống bằng môn vật lý thiên văn và bằng môn hóa sinh cho thấy rằng tiềm năng tiến hóa gần như là số 0, nếu không phải là số 0. Từ nghiên cứu thực tế và trung thực của khoa học, rất khó chấp nhận sự sống có thể ra từ các chất gas, proton, neutron, và electron xuất hiện từ chỗ không không và phát triển thành một tế bào đơn và rồi tiếp tục phát triển thành hình thái phức tạp của con người. Các sự kiện thực chỉ hướng về từng loài sản sinh ra chính loài của chúng.
+Kinh thánh tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên và đã nắn đúc các loài vật "tùy theo loại". Từng loài, từng nhóm chính, đã được dựng nên để sản sinh chỉ ra chính loài của nó.
(Lưu ý: James Montgomery Boice có một cuộc bàn bạc xuất sắc về quan điểm sáng tạo, bao gồm quan điểm tiến hóa. Hãy xem sách của ông: Genesis : An Expositional Commentary, Vol.1, p.37-38).

"bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được, vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm. Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại; họ đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời không hề hư nát lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng" (Rôma 1:20-23).
"Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài" (Giăng 1:3).
"Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên muôn vật" (Êphêsô 3:9).
"Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả. Ngài có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong Ngài" (Côlôse 1:16-17).
"Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và quyền lực; vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và đã được dựng nên" (Khải huyền 4:11).

Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời đã ban cho các loài thú mối quan hệ họ hàng với đất. Ngài đã dựng nên các loài thú ra từ đất (xem chú thích — Sáng thế ký 1:24). Là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời và của đất của Đức Chúa Trời, con người có bổn phận phải chăm sóc các thú vật, ngay như chính mình Đức Chúa Trời cũng sẽ chăm sóc chúng.

Tư tưởng 2. Người tín đồ giờ đây nhìn thấy một lẽ thật quan trọng được khẳng định trong sự dựng nên các thú đồng: Đức Chúa Trời quả là một Đức Chúa Trời của trật tự (tiến triển và hoàn thiện) và là một Đức Chúa Trời hay chăm sóc, hay dính dáng theo cách cá nhân. Kỳ thực, Đức Chúa Trời đã dựng nên với sự vận hành hướng thượng — tấn tới luôn — bằng cách tạo ra một hình thái sáng tạo cao hơn giờ đây rất rõ nét (xem chú thích — Sáng thế ký 1:20-23). Sự sáng tạo những hữu thể với linh hồn vận hành không những từ hình thái nầy sang hình thái khác, từng bước một, mà sự sáng tạo sự sống còn vận hành hướng thượng đến một trật tự sống cao hơn (xem chú thích — Sáng thế ký 1:20, Nghiên Cứu #1—Sáng thế ký 1:20; và chú thích 3 — Sáng thế ký 1:25). Và chính mình Đức Chúa Trời dấn thân thật năng động trong từng vận hành ấy. Chỉ tưởng tượng ra tất cả mọi hình thái sống chỉ trên đất thôi — con số không đếm được cùng chi tiết phức tạp của từng loài và tất cả kết hợp lại! Đức Chúa Trời vô hạn là dường nào — Đức Chúa Trời của trật tự (tiến triển và hoàn thiện) và Đức Chúa Trời hay chăm sóc, hay dính dáng theo cách ác nhân!
Người tin Chúa sấp mình xuống, không thể hiểu nổi Đức Chúa Trời; người tin cậy Đức Chúa Trời và thờ lạy đầu phục Đức Chúa Trời.

"Lạy Đức Chúa Trời là Chúa chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và quyền lực; vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và đã được dựng nên" (Khải huyền 4:11).
"Người cất tiếng lớn nói rằng: Hãy kính sợ Đức Chúa Trời, và tôn vinh Ngài, vì giờ phán xét của Ngài đã đến; hãy thờ phượng Đấng dựng nên trời, đất, biển và các suối nước" (Khải huyền 14:7).
"Hãy ca hát cho Ngài, hãy ngợi khen Ngài! Suy gẫm về các công việc mầu của Ngài" (I Sử ký 16:9).
"Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng cho danh Ngài; Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va" (Thi thiên 29:2).
"Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy; Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo hóa chúng tôi!" (Thi thiên 95:6).
"Hãy mặc trang sức thánh mà thờ lạy Đức Giê-hô-va; Hỡi cả trái đất, khá run sợ trước mặt Ngài" (Thi thiên 96:9).

3. (1:25) Các loài thú — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời thấy rằng sự sáng tạo của Ngài là tốt lành — các loài thú của đất chu toàn chức năng của chúng. Từ ngữ "tốt lành" có ý nói rằng thú đồng của đất rất có giá trị: chúng đã có mục đích thật đặc biệt về việc được dựng nên. Ít nhất có bốn lý do chính cho thấy lý do tại sao Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng:
+Để ở và cung ứng sự sống cho loài thọ tạo của Ngài, cho địa cầu.
+Để giúp thực hiện tái sản xuất chuỗi thực phẩm.
+Để cung ứng sự đa dạng và vẽ đẹp cho địa cầu; để tỏ ra sự vinh hiển của công việc tay Ngài làm.
+Để cung ứng tình bạn cho con người.
Tầm quan trọng của các mục đích nầy được nhìn thấy rõ ràng khi chúng ta phác họa một địa cầu không có các loài thú đồng. Chỉ hãy tưởng tượng đất của địa cầu trống không dường nào nếu không có bất kỳ sự sống động vật nào. Đúng là một sự trống không đầy dẫy đất trên địa cầu.

Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của sự đa dạng, và xinh đẹp. Hết loại nầy đến loại khác, loài nầy đến loài khác, cấp nầy đến cấp khác đã được dựng nên — một sự đa dạng vô hạn, từng loài với vẽ đẹp và mục đích riêng của nó. Con người có thể nhìn thấy quyền phép của Đức Chúa Trời rõ ràng là dường nào nếu người ấy chịu dành thì giờ ra mà ngắm nhìn. Đức Chúa Trời mong muốn được con người nhìn thấy và ngợi khen trong sự sáng tạo là dường nào!

"Ôi chỉ một mình Chúa là Đức Giê-hô-va có một không hai; Chúa đã dựng nên các từng trời, và trời của các từng trời, cùng toàn cơ binh của nó, trái đất và các vật ở trên nó, biển và muôn vật ở dưới nó Chúa bảo tồn những vật ấy, và cơ binh của các từng trời đều thờ lạy Chúa" (Nêhêmi 9:6).
"Nhưng khá hỏi loài thú, chúng nó sẽ dạy dỗ ngươi, Hỏi các chim trời, thì chúng nó sẽ bảo cho ngươi; Hoặc nữa, hãy nói với đất, nó sẽ giảng dạy cho ngươi; Còn những cá biển sẽ thuật rõ cho ngươi biết. Trong các loài này, loài nào chẳng biết rằng tay của Đức Chúa Trời đã làm ra những vật ấy? Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, Và hơi thở của cả loài người" (Gióp 12:7-10).
"Phàm vật Đức Chúa Trời đã làm nên đều là tốt lành trong thì nó. Lại, Ngài khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người; dầu vậy, công việc Đức Chúa Trời làm từ ban đầu đến cuối cùng, người không thế hiểu được" (Truyền đạo 3:11).
"Hỡi các bạn, sao làm điều đó? Chúng ta chỉ là loài người giống như các ngươi; chúng ta giảng Tin Lành cho các ngươi, hầu cho xây bỏ các thần hư không kia, mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật trong đó" (Công Vụ các Sứ Đồ 14:15).

Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời "tán thành" và xem xét chính công việc của Ngài. Ngài sẽ xét đoán càng hơn cách xử sự của con người đối với địa cầu và bổn phận của con người đối với địa cầu? Phương thức con người đối xử với địa cầu cùng các tạo vật của đất rất quan trọng đối với Đức Chúa Trời — rất quan trọng.

"Thật thế, muôn vật ước ao nóng nảy mà trông đợi con cái Đức Chúa Trời được tỏ ra. Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay; không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi trông đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy" (Rôma 8:19-23).
"Vả, nước thiên đàng, giống như người chủ nhà kia, tảng sáng đi ra, để mướn người làm công cho vườn nho mình [thế gian]" (Mathiơ 20:1).
"Hãy nghe lời ví dụ khác. Có người chủ nhà kia, trồng một vườn nho, rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và cất một cái tháp; rồi cho những kẻ trồng nho mướn, và đi qua xứ khác" (Mathiơ 21:33).
"Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành" (I Côrinhtô 4:2).
"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất. Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi" (Sáng thế ký 1:27-28).
"Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, Khiến muôn vật phục dưới chân người" (Thi thiên 8:6).
"Đất và muôn vật trên đất, Thế gian và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va" (Thi thiên 24:1).
"Nếu ta đói, ta chẳng nói cho ngươi hay; Vì thế gian và muôn vật ở trong, đều thuộc về ta" (Thi thiên 50:12).

Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời đã dựng nên loài vật cho loài người (Sáng thế ký 2:18…). Vì lẽ đó, con người sẽ vui lòng với sự dựng nên loài vật của Đức Chúa Trời, và cư xử có trách nhiệm đối với chúng.

Tư tưởng 4. Đức Chúa Trời chăm sóc cho mọi loài vật, ngay cả con chim sẻ nhỏ bé kia sẽ không rơi xuống đất. Hãy suy nghĩ xem, Ngài còn chăm sóc chúng ta nhiều là dường nào.

"Hãy xem loài chim trời: chẳng có gieo, gặt cũng chẳng có thâu trữ vào kho tàng, mà Cha các ngươi trên trời nuôi nó. Các ngươi há chẳng phải là quí trọng hơn loài chim sao?" (Mathiơ 6:26).
"Người ta há chẳng bán năm con chim sẻ giá hai đồng tiền sao? Nhưng Đức Chúa Trời không quên một con nào hết. Dầu đến tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm cả rồi. Đừng sợ chi, vì các ngươi trọng hơn nhiều chim sẻ" (Luca 12:6-7).
"Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong nước trên trời của Ngài. Nguyền xin sự vinh hiển về nơi Ngài muôn đời không cùng! A-men" (II Timôthê 4:18).
"Như vậy, chúng ta được lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ chi hết. Người đời làm chi tôi được?" (Hêbơrơ 13:6).
"Đức Giê-hô-va đáp rằng: Chính mình ta sẽ đi cùng ngươi, và ta sẽ cho ngươi an nghỉ" (Xuất Êdíptô ký 33:14).
"Đừng sợ, vì ta ở với ngươi; chớ kinh khiếp, vì ta là Đức Chúa Trời ngươi! Ta sẽ bổ sức cho ngươi; phải, ta sẽ giúp đỡ ngươi, lấy tay hữu công bình ta mà nâng đỡ ngươi" (Êsai 41:10).
"Khi ngươi vượt qua các dòng nước, ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ chẳng che lấp. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa chẳng đốt ngươi" (Êsai 43:2).
"Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi; Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài, và tôi được cứu tiếp; Vì vậy, lòng tôi rất mừng rỡ, Tôi sẽ lấy bài ca mà ngợi khen Ngài" (Thi thiên 28:7).
"Còn tôi là khốn cùng và thiếu thốn; Dầu vậy, Chúa tưởng đến tôi. Chúa là sự tiếp trợ tôi, và là Đấng giải cứu tôi. Đức Chúa Trời tôi ôi! xin chớ trễ hoãn" (Thi thiên 40:17).