Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Sáng thế ký 1:26-31: "Dựng Nên Con Người: Người Nam và Người Nữ"


Sáng thế ký 1:26-31:Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục  tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất. Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi. Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy. Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu”.
BỐ CỤC:

SÁNG THẾ KÝ:  PHẦN I
SỰ DỰNG NÊN CÁC TỪNG TRỜI VÀ ĐẤT, 1:1-2:3

I. Ngày thứ sáu (Phần 2): Dựng nên con người, người nam và người nữ, 1:26-31
(1:26-31) Phần giới thiệu: khi Đức Chúa Trời dựng nên vũ trụ, Ngài đã dựng nên bằng nhiều chặng. Ở chặng thứ nhứt, Ngài treo các ngôi sao và địa cầu trên khoảng không không. Hết thảy chúng đều ở chỗ bất toàn, chưa hoàn tất, và không kết quả được. Bản thân địa cầu bị bao phủ với một đại dương mênh mông: cả đất bị đặt ở dưới một đại dương gồm những cơn sóng gào thét, thịnh nộ. Thêm nữa, có một lớp sương mù dày đặc — một lớp sương mù và mây mù dày đặc — bao bọc lấy cả đất. Hãy tưởng tượng xem! Địa cầu bị bao phủ với một đám mây dày đặc giờ đây đã dấy cao lên bầu trời chừng vài ngàn feet. Điều nầy có ý nói rằng địa cầu bị nhận chìm trong bóng tối đen kịt (xem chú thích 4, Nghiên Cứu Sâu Hơn  #4 — Sáng thế ký 1:2 để thảo luận). Đây là địa cầu thời nguyên thủy; đây là cách thức hành tinh của chúng ta trước khi Đức Chúa Trời bắt đầu sáu ngày sáng tạo. Nhưng Đức Chúa Trời không dựng nên địa cầu để cứ mãi ở trong chặng đường nguyên thủy. Ngài dựng nên địa cầu để làm nơi ở cho con người. Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã mở ra các hành động sáng tạo quan trọng của Ngài; Đức Chúa Trời đã mở ra sáu ngày sáng tạo quan trọng:
+ Vào ngày thứ nhứt: Đức Chúa Trời dựng nên sự sáng (Sáng thế ký 1:3-5).
+ Vào ngày thứ hai: Đức Chúa Trời dựng nên khoảng không (bầu không khí và khoảng không gian ngay phía trên địa cầu) (Sáng thế ký 1:6-8).
+ Vào ngày thứ ba: Đức Chúa Trời dựng nên biển, đất khô, và rau cỏ (Sáng thế ký 1:9-13).
+ Vào ngày thứ tư: Đức Chúa Trời phân phối ánh sáng trên địa cầu, phân biệt ngày và đêm, mùa và năm (Sáng thế ký 1:14-19).
+ Vào ngày thứ năm: Đức Chúa Trời dựng nên các tạo vật lội dưới biển và bay trên không (Sáng thế ký 1:20-23).
+ Vào ngày thứ sáu, nửa đầu của ngày nầy: Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng (Sáng thế ký 1:24-25).
Giờ đây, vào nửa phần sau của ngày thứ sáu, hành động sáng tạo sau cùng diễn ra. Hành động sáng tạo nầy được tôn cao và là đỉnh cao sáng tạo của Đức Chúa Trời. Sau hành động sáng tạo nầy, địa cầu sẽ hoàn toàn được đầy dẫy với những tạo vật do Đức Chúa Trời dựng nên. Sẽ chẳng có thêm sự sáng tạo nào nữa, chẳng có ở trên địa cầu. Địa cầu sẽ có loài thọ tạo trở thành nhân vật cai trịbảo hộ của nó: là con người. Con người là loài thọ tạo theo kiểu tiệm tiến của Đức Chúa Trời. Con người là tạo vật mà Đức Chúa Trời đã hoạch định và dựng nên có mục đích cho đến đời đời — từ lâu, rất lâu trước khi địa cầu được dựng nên. Đây là chủ đề của phân đoạn Kinh thánh quan trọng nầy, phân đoạn bao trùm hành động sáng tạo tiệm tiến của Đức Chúa Trời: "Sự Dựng Nên Con Người, Người Nam Và Người Nữ".

NGHIÊN CỨU #1  (1:26-31) Con người, Sự dựng nên — Các loài động vật: con người là đỉnh cao sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Con người không chỉ là một tạo vật. Con người là một hữu thể đặc biệt được hình thành trong tâm trí của Đức Chúa Trời. Đây là lẽ thật mà con người cần phải biết để hiểu rõ về bản thân mình.
+ Con người thuộc về đất, mà con người cũng thuộc về Đức Chúa Trời nữa.
+ Con người thuộc về thế giới vật lý, con người cũng thuộc về thế giới thuộc linh nữa. Con người là xác thịt, con người cũng là linh hồn.
+ Con người có quan hệ với các loài động vật của địa cầu, con người cũng có quan hệ với Đức Chúa Trời nữa.
Nơi con người, cả hai: xác thịt và tâm linh được hòa lại với nhau. Nơi con người, cả đất và trời được tiêu biểu cho. Nơi con người, cả bây giờ và cõi đời đời đều mong muốn. Nơi con người, cả thế giới thuộc thể và thế giới thuộc linh đều kinh qua. (Xem chú thích — Rôma 8:28-39, đối chiếu Rôma 8:2; I Côrinhtô 3:1-3. Đối chiếu Rôma 8:1, 5f…; Galati 5:17).
Con người có quan hệ với các loài động vật, và con người khác biệt với các loài động vật như thế nào? Con người dự phần với các loài động vật thuộc về câu chuyện sáng tạo.
1. Sự sáng tạo: con người được dựng nên từ bụi đất, các loài động vật cũng vậy (Sáng thế ký 2:7, 19. Xem chú thích — Sáng thế ký 1:24).
2. Dinh dưỡng: con người sống thuộc về đất, các loài vật sống cũng vậy (Sáng thế ký 1:29-30).
3. Sinh sản: con người mang lấy dòng giống con người bởi cùng tiến trình các loài vật mang lấy giống dòng của chúng — bằng cách sinh sản (Sáng thế ký 1:22, 28).
4. Bản chất: các loài động vật được dựng nên vì con người (na ná với con người). Có một sự kết hợp gần gũi giữa con người và các loài động vật (Sáng thế ký 2:18-19, đối chiếu Sáng thế ký 6:19f…; Sáng thế ký 8:18-19).

Con người khác biệt với các loài động vật ít nhất trong bốn cách thức quan trọng. (Cần phải chú ý là cho dù có những điểm tương đồng giữa con người và các loài động vật, phần nhấn mạnh của Sáng thế ký đặt trên sự phân biệt của con người. Con người là đỉnh cao sự sáng tạo của Đức Chúa Trời [Thi thiên 8:5-8]).
1. Con người khác biệt với các loài động vật trong tâm trí và trong tấm lòng của Đức Chúa Trời. Có một "Ý Đồ Thiêng Liêng" cần phải giữ lấy để thảo luận về sự sáng tạo con người (xem Nghiên Cứu #2 — Sáng thế ký 1:26). Đức Chúa Trời giữ con người rất thiết trong tấm lòng của Ngài (Châm ngôn 8:31; Giăng 3:16).
2. Con người khác biệt với các loài động vật trong lời Kinh thánh. "Chúng ta hãy dựng nên [con người]" nhấn mạnh hành động trực tiếp và phân biệt của Đức Chúa Trời hơn "Đất phải sanh các vật sống" (đối chiếu Sáng thế ký 1:24, 26). Lời Kinh thánh chỉ thẳng ra một hữu thể thiêng liêng, khôn ngoan, và quyền phép đang dựng nên — một hữu thể là chủ của địa cầu chẳng ai khác hơn là Đức Chúa Trời.
3. Con người khác biệt với các loài động vật trong cách thức Đức Chúa Trời dựng nên con người. Đức Chúa Trời hà hơi của chính Ngài — Thánh Linh và sự sống của Ngài — vào con người (Sáng thế ký 2:7).
 4. Con người khác biệt với các loài thú đồng theo chức năng. Con người được ban cho quyền quản trị "trên cả đất", kể cả quản trị trên các loài động vật (xem Nghiên Cứu #3—Sáng thế ký 1:28, đối chiếu Sáng thế ký 2:19; Thi thiên 8:4-8; Giacơ 3:7).

1. (1:26) Con người — Sự Sáng Tạo — Địa cầu — Ba Ngôi Đức Chúa Trời: Lời của Đức Chúa Trời đã dựng nên con người. Con người hiện hữu vì Đức Chúa Trời phán con người phải hiện hữu. Đức Chúa Trời sử dụng quyền phép Lời của Ngài để dựng nên con người. Đức Chúa Trời chỉ phán thì con người bước vào hiện hữu. Đức Chúa Trời phán thì mọi luật lệ khiến con người hình thành liền đi vào hoạt động. Đức Chúa Trời phán, và các yếu tố cơ bản — những nguyên tử, phân tử, proton, neutron, electron, genes, DNA, và bất cứ yếu tố cơ bản nào từng được khám phá dựng nên sự sống con người — bước vào sự hiện hữu. Đức Chúa Trời phán, và quyền phép Lời Ngài hình thành và dựng nên con người. Có ba điểm rất đặc biệt trong câu nầy.
1. Đức Chúa Trời tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, một cuộc mưu luận thiêng liêng, để dựng nên con người. Hãy chú ý những gì Đức Chúa Trời đã phán: "Chúng ta hãy làm nên...như hình ta...theo tượng ta". Đây là số nhiều. Đức Chúa Trời đang phán với Đấng Christ, Con của Ngài, và với Đức Thánh Linh. Làm sao chúng ta biết được điều nầy?
+ Thứ nhứt, vì Đức Chúa Jêsus Christ đã tỏ ra Ba Ngôi Đức Chúa Trời cho chúng ta biết (Giăng 14:16-17, 26). Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh hiện đang tồn tại. Hết thảy Ba Ngôi đang hiện hữu trong sự hiệp một trọn vẹn. Hết thảy họ đều có một tâm trí và mục đích. Vì vậy, họ phải bàn bạc và cùng nhau quyết định nhiều sự việc giống như bất kỳ một gia đình nào hiệp một phải lo liệu vậy.
+ Thứ hai, vì Kinh thánh tỏ ra rằng tất cả Ba Thân Vị Đức Chúa Trời đều dính dáng vào công cuộc sáng tạo (Sáng thế ký 1:1; Sáng thế ký 1:2; Giăng 1:3; Côlôse 1:16; Hêbơrơ 1:1-2). Ba ngôi Đức Chúa Trời chắc chắn đã bàn bạc trong khi họ dựng nên địa cầu. Quả là bất hợp lý khi nghĩ họ sẽ không bàn bạc công việc của họ.
+ Thứ ba, vì Đức Chúa Trời sử dụng số nhiều ở đây trong sách Sáng thế ký. Đức Chúa Trời phán: "Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta theo tượng ta". Đức Chúa Trời không bảo các thiên sứ cũng không bảo bất kỳ tạo vật nào khác ở trên trời rằng họ phải cùng nhau làm việc để dựng nên con người. Đức Chúa Trời, chớ không phải các hữu thể thiên thượng, đang dựng nên con người. Con người là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời và của chỉ một mình Đức Chúa Trời. Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh — Ba Ngôi Đức Chúa Trời trọn vẹn, mọi sự Đức Chúa Trời dựng nên là: con người, mão triều thiên và sự vinh hiển của Ngài.
+ Thứ tư, vì Đức Chúa Trời đã dựng nên con người theo ảnh tượng của chính Ngài. Đức Chúa Trời không dựng nên con người theo ảnh tượng của các thiên sứ, cũng không dựng nên theo bất kỳ một hữu thể thiên thượng nào khác. Đây không phải là phần nhấn mạnh của hành động sáng tạo nầy. Phần nhấn mạnh là đây: Đức Chúa Trời đã dựng nên con người theo chính ảnh tượng và theo một mình ảnh tượng của Ngài mà thôi. "Chúng ta hãy làm nên loài người" đang đề cập tới Đức Chúa Cha đang trao đổi với Đức Chúa Con và với Đức Thánh Linh. Con người mang lấy chính ảnh tượng của chính mình Đức Chúa Trời. Con người được dựng nên...
+ theo ảnh tượng của Đức Chúa Cha.
+ theo ảnh tượng của Đức Chúa Con.
+ theo ảnh tượng của Đức Thánh Linh.
Mục tiêu là đây: Đức Chúa Trời đã tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, một cuộc mưu luận thiêng liêng, để dựng nên con người. Đức Thánh Linh, Đấng cảm thúc Kinh thánh, đang sử dụng số nhiều "chúng ta hãy" để nói cho chúng ta biết sự việc nầy. Nói như thế không phải là nói toàn bộ giáo lý về Ba Ngôi Đức Chúa Trời được dạy dỗ ở đây. Nói như thế thì là dại dột lắm. Chẳng có ai biết Hữu Thể Ba Ngôi Đức Chúa Trời nếu chúng ta chỉ đọc câu chuyện Sáng thế ký nói tới sự sáng tạo và bất chấp Tân Ước. Thế nhưng khi chúng ta đọc và để ý đến số nhiều, hột giống Ba Ngôi Đức Chúa Trời được gieo vào lý trí của chúng ta. Và chúng ta biết nói như thế có nghĩa gì vì cớ sự khải thị của Đức Chúa Jêsus Christ và của Kinh thánh như một tổng thể. Chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh đã cảm thúc Kinh thánh, rằng Ngài đã dẫn dắt trước giả của sách Sáng thế ký phải sử dụng số nhiều. Tại sao chứ? Để tỏ ra sự oai nghi và vinh quang lớn lao của con người. Con người được ban cho đặc ân vinh hiển là được dựng nên bởi tất cả các Ngôi của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã tổ chức một hội nghị quan trọng để hoạch định sự sáng tạo của con người. Sự sáng tạo của con người cần phải rất đặc biệt, thật tiệm tiến — là mão triều thiên và vinh hiển của công cuộc sáng tạo — đến nỗi Đức Chúa Trời đã triệu tập một hội nghị rất quan trọng để bàn bạc vấn đề, một cuộc họp thiêng liêng bao gồm...
+ Đức Chúa Cha
+ Đức Chúa Con
+ Đức Thánh Linh
(Xem Nghiên Cứu #1 — Sáng thế ký 3:22 để thảo luận).

Tư tưởng 1. Tất cả ba Thân vị Đức Chúa Trời đã bàn luận rồi dấn thân theo cách riêng vào công cuộc sáng tạo con người. Khi người tin Chúa thực sự suy gẫm về lẽ thật vinh hiển nầy, tấm lòng của người sẽ rung động với sự phấn khích. Người nhìn thấy Đức Chúa Trời đã hoạch định mình với một chương trình rất đặc biệt và Đức Chúa Trời chăm sóc cho người với một sự chăm sóc và tình yêu thương rất đặc biệt. Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh hết thảy đều dấn thân vào việc hoạch định và dựng nên người. Chương trình của Đức Chúa Trời cho sự sáng tạo vốn quan trọng đến nỗi nó đòi hỏi sự đầy dẫy hiện diện, tình yêu thương và sự quan phòng của Đức Chúa Trời.

"Chúa sai Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên; Chúa làm cho mặt đất ra mới" (Thi thiên 104:30).
"Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài" (Giăng 1:3).
"Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả" (Côlôse 1:16).
"Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian" (Hêbơrơ 1:1-2).

Tư tưởng 2. Ban đầu, Đức Chúa Trời tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, một cuộc bàn bạc thiêng liêng để dựng nên con người. Hôm nay, Đức Chúa Trời ban bố một hy vọng rất đặc biệt dành cho con người: sự cứu chuộc. Kể từ khi con người sa ngã vào trong tội lỗi và sự chết, Đức Chúa Trời (toàn bộ Ba Ngôi Đức Chúa Trời) đã năng động dấn thân vào sự tái tạo và cứu chuộc con người. Trong sự sáng tạo ban đầu, Đức Chúa Trời sai phái cả hai: Con Ngài và Thánh Linh Ngài, để dựng nên con người. Giờ đây, trong sự tái tạo — do sự sa ngã của con người đòi hỏi — Đức Chúa Trời đã sai cả hai: Con của Ngài và Thánh Linh của Ngài để tái tạo con người (sự sanh lại). Tất cả ba Thân Vị của Đức Chúa Trời đã năng động dấn thân vào sự cứu chuộc con người, trong sự tái tạo con người, giống như trong sự dựng nên con người lúc ban đầu. Tất cả ba Thân Vị Đức Chúa Trời đã tìm cách cứu chuộc con người.

"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời" (Giăng 3:16).
"Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi. Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến cùng các ngươi" (Giăng 14:16-18).
"Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta không đi, Đấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không tin ta; về sự công bình, vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng thấy ta nữa; về sự phán xét, vì vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét. Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi. Mọi sự Cha có, đều là của ta; nên ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi vậy" (Giăng 16:7-15).
"Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời. Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài" (Rôma 8:14-17).

2. Đức Chúa Trời đã dựng nên con người làm một tạo vật rất đặc biệt: con người được dựng nên theo chính ảnh của Đức Chúa Trời, theo chính tượng của Đức Chúa Trời (xem phần 1 ở trên để thảo luận).
3.  Đức Chúa Trời đã dựng nên con người vì một mục đích rất đặc biệt: để quản trị trên cả đất. Đức Chúa Trời đã hoạch định và dựng nên con người với một sự vinh quang và trách nhiệm rất đặc biệt: để giám sát mọi sự mà Ngài đã dựng nên (xem Nghiên Cứu #3—Sáng thế ký 1:28 để thảo luận).

NGHIÊN CỨU #2  (1:26) Con người — Sự sáng tạo — Linh hồn: Đức Chúa Trời dựng nên con người theo ảnh tượng của Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Hãy chú ý kỹ những gì Kinh thánh chép:

"Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta" (Sáng thế ký 1:26).
"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời" (Sáng thế ký 1:27).

Nói con người được dựng nên theo "ảnh tượng của Đức Chúa Trời" thì có nghĩa gì? Nói như thế có nghĩa là phân biệt con người với mọi sự sống khác. Không có chỗ nào Đức Chúa Trời phán Ngài dựng nên một hữu thể theo "ảnh Ngài, theo tượng Ngài" cả. Chỉ có con người mới được dựng nên theo "ảnh Ngài, tượng Ngài" mà thôi (Xem chú thích — Sáng thế ký 5:1-2 để thảo luận).
1. Không chắc nói như thế có nghĩa là nói tới linh hồn của con người đâu. Kinh thánh chép rằng mọi tạo vật sống đều là linh hồn. Chúng được dựng nên là linh hồn sống. Mọi tạo vật sống đều có hơi thở, lương tâm, và sinh khí. (Xem Nghiên Cứu #1, Linh hồn — Sáng thế ký 1:20 để thảo luận).
2. Không chắc nói như thế là muốn nói tới khả năng lý luận. Rõ ràng, loài động vật đều có khả năng lý luận và thậm chí học tập tới các cấp độ khác nhau. Loài động vật tỏ ra khả năng suy nghĩ khi đối diện với các nan đề hay kẻ thù, hoặc nếm trải vô số kinh nghiệm trong cuộc sống.
3. Không chắc nói như thế là muốn nói tới khả năng sống đạo đức và công bình. Loài động vật — đặc biệt một số loài, cả cá nhân và trong các nhóm gia đình — đều có phép tắc và hành động dẫn tới cách xử sự đạo đức giữa vòng chúng và thậm chí đối với các loài khác nữa. Dường như là có một số hành vi đúng sai giữa vòng các loài động vật nầy.
Tuy nhiên, điều nầy cần được chỉ ra: con người thì siêu việt hơn các loài động vật cả về trí khôn lẫn đạo đức. Con người thì siêu việt hơn cả hai: hữu thể có lý trí (hữu thể biết lý luận) và hữu thể đạo đức (hữu thể sống trong sự công bằng, có quan hệ với các loài khác một khi nó có thể). (Hãy chú ý hữu thể được làm mới lại về mặt thuộc linh và về mặt lý trí trong Đấng Christ đang tác động khả năng lý luận và đạo đức của con người. Con người có thể được dựng nên trong sự công nghĩa và trong sự thánh khiết thật — được giải phóng ra khỏi vòng nô lệ hợp pháp do sự công bình và thánh khiết mà con người lập nên, khỏi tôn giáo do con người lập nên đầy những nghi thức và phép tắc [Êphêsô 4:24; Côlôse 3:10]).
Vậy thì, Đức Chúa Trời muốn nói gì khi Ngài phán rằng con người được dựng nên theo "ảnh tượng của Đức Chúa Trời"? Ít nhất, Kinh thánh muốn nói tới 5 việc:
1. Đức Chúa Trời là trọn vẹn, vì vậy Ngài dựng nên con người giống như chính mình Ngài, là trọn vẹn. Tất nhiên, điều nầy đề cập tới sự sáng tạo nguyên thủy về con người. Khi Đức Chúa Trời lần đầu tiên dựng nên con người, con người được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, được dựng nên trong sự trọn vẹn, được dựng nên không tì vít hay bất cứ một khuyết điểm nào. Con người có một thân thể và trí khôn hoàn hảo, sức khỏe và sự thông minh trọn vẹn. Con người chẳng biết tới tật bịnh, đau ốm, hay tai họa; và con người có khả năng tiếp thu. Con người chẳng kinh qua đau khổ hay khó khăn. Con người chẳng có ý thức gì về sự ganh ghét, chẳng biết trống vắng là gì, hay tình trạng cô đơn. Con người không hề đổ nước mắt vì buồn rầu, khổ sở. Và trên hết mọi sự, con người thoải mái chẳng có tội lỗi hay sự hư nát chi hết, thoải mái sống cho đến đời đời và không bao giờ chết mất. Con người được dựng nên thật trọn vẹn, theo chính "ảnh tượng" của sự trọn lành Đức Chúa Trời.

"Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn" (Mathiơ 5:48).
"bởi sự ngu muội ở trong họ, và vì lòng họ cứng cỏi nên trí khôn tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời" (Êphêsô 4:18).
"Ấy là Ngài mà chúng tôi rao giảng, lấy mọi sự khôn ngoan răn bảo mọi người, dạy dỗ mọi người, hầu cho bày tỏ mọi người trở nên trọn vẹn trong Đấng Christ ra trước mặt Đức Chúa Trời" (Côlôse 1:28).

2. Đức Chúa Trời là sự sáng, đầy dẫy sự vinh hiển, rực rỡ, và sáng láng. Vì thế, Đức Chúa Trời dựng nên con người rồi mặc cho họ với sự vinh hiển sáng láng của Ngài (xem chú thích 1, phần 2 — Sáng thế ký 3:7; chú thích — Sáng thế ký 3:21).

"Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu" (I Giăng 1:5).
"Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng khác nào bằng cái áo" (Thi thiên 104:2).

3. Đức Chúa Trời là thánh: vô tội, công bình, thanh sạch, và đạo đức. Vì thế Đức Chúa Trời đã dựng nên con người thánh khiết, vô tội, công bình, thanh sạch và đạo đức. Đức Chúa Trời đã dựng nên con người rất phân biệt — biệt riêng ra đối với mọi loài thọ tạo khác — trong cuộc sống và trong cách ứng xử, để sống một đời sống tin kính.

"bởi có chép rằng: Hãy nên thánh, vì ta là thánh" (I Phierơ 1:16, đối chiếu Lêvi 11:45).
"Hãy cầu sự bình an với mọi người, cùng tìm theo sự nên thánh, vì nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Đức Chúa Trời" (Hêbơrơ 12:14).
"Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào" (II Phierơ 3:11).

4. Đức Chúa Trời là tình yêu thương: tin kính, trung thành, yêu thương, thương xót, giàu ơn, và rất tình cảm. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã dựng nên con người là một tạo vật biết yêu thương, tin kính, trung thành, thương xót, giàu ơn và rất tình cảm.

"Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương" (I Giăng 4:7-8).
"Chúng ta đã biết và tin sự yêu thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Đức Chúa Trời tức là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy" (I Giăng 4:16).

5. Đức Chúa Trời là Thần, là Linh đời đời; Đức Chúa Trời là sự sống, sự sống đời đời; Đức Chúa Trời là Thân Vị duy nhứt đã sống cho đến đời đời, Ngài không hề có khởi đầu và sẽ chẳng có kết cuộc. Vì lẽ đó...
+ Đức Chúa Trời đã dựng nên con người và đã ban cho người một tâm linh, một hơi thở bất tử, một sự sống, sống cho đến đời đời giống như Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời vượt trỗi cao hơn những gì Ngài đã dựng nên khi Ngài dựng nên các loài động vật như linh hồn sống rồi ban cho chúng một cuộc sống đời nầy và một hơi thở tạm thời. Đức Chúa Trời dựng nên con người là một linh giống như chính mình Ngài, giống như chính sự sống của Ngài vậy. Rõ ràng, không một loài vật nào là một linh; loài động vật chỉ là hồn mà thôi. Là hồn sống, chúng có khả năng theo cấp độ khác nhau khi thở, khi lý luận, và khi quan hệ. Nhưng không loài nào trong số chúng có quyền thở cho đến đời đời được, chúng cũng không sinh hoạt và không có khả năng lý luận như Đức Chúa Trời cũng không quan hệ với Đức Chúa Trời. Nhưng con người có quyền đó, sinh hoạt và khả năng. Con người là linh, giống như Đức Chúa Trời là Thần vậy. Con người không những chỉ có thân và hồn giống như các loài động vật trong sự sáng tạo. Con người không những là một linh hồn sống có hơi thở trên đất nầy. Con người là linh, một hữu thể bất tử.
Theo ánh sáng của mọi sự nầy, có ít nhất hai dấu hiệu phân biệt nói tới hình ảnh của Đức Chúa Trời trong con người, hai dấu hiệu phân biệt là một linh nơi con người.
a. Hình ảnh của Đức Chúa Trời bên trong con người là quyền bất tử. Con người sống trên địa cầu nầy, sống cho đến đời đời giống như Đức Chúa Trời. Như đã nói ở trên, theo Kinh thánh, không một loài động vật nào là linh cả; loài động vật chỉ là hồn mà thôi. Là hồn, chúng có khả năng hít thở, nghĩa là, để sống. Song không một loài nào trong số chúng có quyền thở cho đến đời đời. Nhưng con người có quyền đó. Con người là linh, giống như Đức Chúa Trời là Thần vậy. Con người không những là linh hồn sống có hơi thở giống như các loài động vật đã được dựng nên trên đất nầy, con người là linh, một hữu thể bất tử được dựng nên cho cả hai: địa cầu nầy và cho cõi đời đời.

"Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến" (Giăng 17:3).

b. Hình ảnh của Đức Chúa Trời bên trong con người là cả hai: sinh hoạt và khả năng (lựa chọn) thờ phượng. Con người không những có khả năng lý luận và quan hệ, song họ còn có...
+ một sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh không thể dập tắt được để lý luận với Đức Chúa Trời.
+ một sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh không thể dập tắt được khi quan hệ với Đức Chúa Trời.
Một lần nữa, như đã nói ở trên, không một loài động vật nào thuộc đời nầy có sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh nầy. Kinh thánh gán cho hồn nhiều khả năng khác nhau, nhưng không một (linh) hồn động vật nào có sự sinh hoạt và khả năng để lý luận với Đức Chúa Trời, chúng cũng không có quan hệ gì với Đức Chúa Trời. Thờ phượng là sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh, một khả năng chỉ có ở linh, chỉ có nơi con người mà thôi. Giống như các loài động vật, con người biết và hiểu rõ mọi sự thuộc về đời nầy; nhưng con người cần phải nhìn biết, tin theo, và hiểu rõ Đức Chúa Trời trước tiên và trên hết (Êsai 43:10). Con người cần phải thờ lạy Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Thần, và con người, họ được dựng nên là linh, cần phải thờ lạy Đức Chúa Trời bằng tâm thần và lẽ thật.

"Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy" (Giăng 4:24).
"Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi là kẻ làm chứng ta, và là đầy tớ ta đã chọn, hầu cho các ngươi được biết và tin ta, và hiểu rằng ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước ta, và cũng chẳng có sau ta nữa" (Êsai 43:10).

Có hai sự kiện quan trọng cần phải lưu ý về hình ảnh của Đức Chúa Trời trong con người, về con người là một hữu thể thuộc linh.
1. Sự loạn nghịch của con người chống lại Đức Chúa Trời (sự sa ngã của con người) đã tác động vào hình ảnh của Đức Chúa Trời trong con người. Đức Chúa Trời đã dựng nên con người là một hữu thể bất tử. Là một hữu thể bất tử trên đất, con người có hai quyền:
+ quyền sống trên đất nầy
+ quyền sống với Đức Chúa Trời cho đến đời đời
Khi con người thực thi khả năng và sự lựa chọn của mình và xây lại nghịch của Đức Chúa Trời, họ mất đi cả hai quyền ấy. Con người không thể sống trên đất cho đến đời đời, họ cũng không thể sống với Đức Chúa Trời cho đến đời đời được. Trong sự loạn nghịch của họ chống lại Đức Chúa Trời, con người đang nói...
+ rằng họ ưa thích một thế giới khác hơn là thế giới của Đức Chúa Trời.
+ rằng họ ưa thích một Thần khác (ý riêng của họ) hơn là chính mình Đức Chúa Trời.
Con người nhơn đó tự xét đoán mình phải rời khỏi đất nầy (phải chết, Sáng thế ký 2:17; Sáng thế ký 3:1f; Sáng thế ký 3:19) và phải bị xa cách đối với Đức Chúa Trời cho đến đời đời (Giăng 3:18). Hãy chú ý, con người đã được dựng nên rồi là một hữu thể bất tử. Vì thế, họ sẽ tiếp tục sống; họ sẽ tồn tại cho đến đời đời, nhưng...
+ họ phải bị đặt ở một chỗ nào đó khác hơn là đất nầy (họ đã chọn như vậy).
+ họ phải bị xa cách khỏi Đức Chúa Trời cho đến đời đời.
Đây là sự lựa chọn của con người (xem chú thích 3 — Sáng thế ký 2:16-17Nghiên Cứu #2 — Sáng thế ký 2:16-17). Hình ảnh của Đức Chúa Trời — quyền bất tử, sự sinh hoạt và khả năng thờ lạy và sống với Đức Chúa Trời — bị hư hỏng cho đến đời đời.
2. Hình ảnh của Đức Chúa Trời trong con người có thể được làm cho mới lại.
a. Con người có thể được "sanh lại" — được làm cho sống động về mặt thuộc linh với Đức Chúa Trời, giống như họ đã sống động về mặt thuộc linh vào lúc ban đầu — không bao giờ hư mất.

"Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời .... Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời" (Giăng 3:3, 5).
"anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời" (I Phierơ 1:23).
"Ai tin Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, thì sanh bởi Đức Chúa Trời; và ai yêu Đức Chúa Trời là Đấng đã sanh ra, thì cũng yêu kẻ đã sanh ra bởi Ngài" (I Giăng 5:1).

b. Con người có thể dự phần vào bổn tánh thiêng liêng của Đức Chúa Trời, "mặc lấy người mới".

"và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật" (Êphêsô 4:24).
"mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn”  (Côlôse 3:10).
"và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản tánh Đức Chúa Trời" (II Phierơ 1:4).

c. Con người có thể được làm nên mới, được tái sanh, hay tái tạo trong Đức Chúa Jêsus Christ.

"Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới" (II Côrinhtô 5:17).
"Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời" (II Côrinhtô 5:21).
"Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bịnh" (I Phierơ 2:24).
"không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh" (Tít 3:5).

d. Con người có thể dự phần bổn tánh thiêng liêng của Đức Chúa Trời và biết chắc về sự sống đời đời trong trời mới đất mới.

"Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời" (I Côrinhtô 15:49).
"và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản tánh Đức Chúa Trời" (II Phierơ 1:4).
"Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chết bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả. Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi! Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở" (II Phierơ 3:10-13).
"Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa" (Khải huyền 21:1).


Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời phán: "Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta" (Sáng thế ký 1:26). Bởi lời lẽ nầy, Đức Chúa Trời đang tỏ ra rằng con người là mão triều thiên vinh hiển nơi sự sáng tạo của Ngài: là hữu thể mặc lấy sự trang trọng và oai nghiêm trong tâm trí của Đức Chúa Trời, là hữu thể được tôn cao trên mọi loài khác, là hữu thể được dự trù làm chủ và quản trị mọi loài thọ tạo của Đức Chúa Trời và được ban cho quyền lực để lo liệu công việc ấy.

Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời giữ con người gần bên tấm lòng của Ngài. Đức Chúa Trời hoạch định và dựng nên con người với sự quan phòng và ân điển rất đặc biệt: theo ảnh của chính Ngài, theo tượng của chính Ngài. Con người là đỉnh cao trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.

2. (1:27) Con người — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mới dựng nên con người, cả hai: nam và nữ, dựng nên họ với sự trang trọng và oai nghi cao nhất, theo ảnh tượng của Ngài. Tại sao sự sáng tạo con người của Đức Chúa Trời được nhắc đi nhắc lại hoài vậy? Tại sao Kinh thánh lại công bố rằng Đức Chúa Trời dựng nên con người theo chính ảnh tượng của Ngài? Hãy chú ý cho kỹ những gì câu Kinh thánh ấy nói:

"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ" (Sáng thế ký 1:27).

Có ba lý do cho thấy tại sao sự dựng nên con người của Đức Chúa Trời cần phải được tái nhấn mạnh.
1. Có một nhu cầu phải nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mới dựng nên con người. Sự sống của con người không những đã bước vào hiện thực. Chất liệu cơ bản của sự sống con người ra từ chỗ không không — không phải các tế bào của con người, không phải ADN, các nguyên tử, hay phân tử của con người. Bất cứ yếu tố cơ bản nào của sự sống con người là gì đi nữa — bất cứ người nào khám phá ra chất liệu cơ bản của sự sống có là gì đi nữa, bất cứ vật chất hay năng lực thô nào của sự sống có là gì đi nữa — chất liệu cơ bản không những bắt đầu hình thành và nắn đúc sự sống. Sự sống con người không xảy ra...
+ bởi cơ hội.
+ bởi sự bừa bãi.
+ bởi một lực lượng hay năng lực khách quan nào kết các tế bào cơ bản và AND lại với nhau để hình thành sự sống con người.
+ bởi một số luật lệ vật lý đã tồn tại sẵn và chỉ khởi sự hình thành sự sống con người.
Sự sống con người được dựng nên bởi Đức Chúa Trời và chỉ bởi một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Bất luận chất liệu cơ bản nào dựng nên sự sống con người, bất kỳ lực lượng thô và luật lệ nào tạo ra sự sống con người, hết thảy chúng đều được dựng nên và đưa vào vận hành bởi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi, bởi quyền phép của Lời toàn năng của Ngài, đã dựng nên sự sống con người. Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi đã truyền cho sự sống con người bước vào hiện thực.

Tư tưởng 1. Một mình Đức Chúa Trời đã dựng nên con người. Con người không nên chối bỏ Đức Chúa Trời; con người không nên chễnh mãng và bất chấp Đức Chúa Trời. Làm như thế sẽ dẫn tới sự chối bỏ bởi Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của con người. Con người là loài thọ tạo. Loài thọ tạo không nên nổi loạn chống nghịch Đấng Tạo Hóa. Loạn nghịch như thế chỉ dẫn tới sự phán xét mà thôi. Vì vậy, con người phải công nhận Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của mình. Con người phải phục vụ và thờ lạy Đức Chúa Trời trong vai trò Đấng Tạo Hóa, là Nguồn Cội và là Đấng Ban Sự Sống, là Chúa Tể và là Chủ Tể của vũ trụ.

"mà lại quên Đức Giê-hô-va, Đấng tạo ngươi, đã giương các từng trời và lập nền đất, và trọn ngày cứ run sợ về cơn giận của kẻ ức hiếp khi nó toan hủy diệt ngươi? Vậy thì bây giờ chớ nào cơn giận của kẻ ức hiếp ấy ở đâu?" (Êsai 51:13).
"Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một cha sao? Chẳng phải chỉ có một Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta sao?" (Malachi 2:10).
"Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài. Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài, Hãy ngợi khen mà vào hành lang Ngài. Khá cảm tạ Ngài, chúc tụng danh của Ngài. Vì Đức Giê-hô-va là thiện; sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi, Và sự thành tín Ngài còn đến đời đời" (Thi thiên 100:3-5).

Tư tưởng 2. Loài thọ tạo nên luôn phục vụ Đấng Tạo Hóa của mình. Đấng Tạo Hóa là Đấng rất chu đáo đến nỗi Ngài ban cho loài thọ tạo một ý chí tự do đáng để được thờ lạy và được phục vụ cho đến đời đời. Đấng Tạo Hóa là Đấng yêu thương nhiều đến nỗi Ngài ban cho loài thọ tạo khả năng yêu thương xứng đáng được kính mến và được tôn vinh. Đức Chúa Trời nầy đã làm như thế. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta cả hai: ý chí tự do và khả năng yêu thương cách tự do; vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đáng được thờ lạy và phục vụ cho đến đời đời. Đức Chúa Trời đáng được kính mến và tôn vinh bởi hết thảy chúng ta.

2. Có một nhu cầu phải nhấn mạnh sự trang trọng và vinh quang của con người. Con người được dựng nên theo chính ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Con người là mão triều thiên và là đỉnh cao sự sáng tạo của con người. Con người là tạo vật mà Đức Chúa Trời đã ban Thánh Linh Ngài trên họ — chính hơi thở bất tử của Ngài, sự sống của Ngài để sống cho đến đời đời. Vì lẽ đó, con người sống cho đến đời đời giống như Đức Chúa Trời vậy. Con người không bao giờ thôi không tồn tại.

Tư tưởng 1. Đây là một việc mà con người cần phải biết: con người đã được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Con người là một tạo vật bất tử: con người sẽ tồn tại cho đến đời đời và mãi mãi. Vì vậy, con người phải biết chắc — tuyệt đối biết chắc — rằng mình sẽ sống với Đức Chúa Trời. Việc duy nhứt con người không nên làm là sống tẻ tách và xa cách đối với Đức Chúa Trời. Con người không nên bỏ sót đặc ân vinh hiển của việc sống đời đời với Đức Chúa Trời.

"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời" (Giăng 3:16).
"Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó" (Giăng 3:36).
"Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu kẻ nào giữ lời ta, sẽ chẳng thấy sự chết bao giờ" (Giăng 8:51).
"Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?" (Giăng 11:26).
"Vả, chúng ta biết rằng nếu nhà tạm của chúng ta dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra" (II Côrinhtô 5:1).
"Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống" (1 Giăng 5:11-12).
"và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó" (Truyền đạo 12:7).

Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời đã ban cho con người chính Thánh Linh của Ngài, chính hơi sống của Ngài.

"Thần Đức Chúa Trời đã sáng tạo tôi, Hơi thở của Đấng Toàn năng ban cho tôi sự sống" (Gióp 33:4).

Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời đã ban sự trang trọng rất lớn cho con người. Đức Chúa Trời đã tôn con người lên với sự vinh hiển và vinh dự.

"Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút, Đội cho người sự vinh hiển và sang trọng" (Thi thiên 8:5).

Tư tưởng 4. Hình ảnh của Đức Chúa Trời hiện đặt trên con người chỉ là một cái bóng mà thôi. Giống như hình ảnh trên con tem vậy. Hình ảnh không phải là nhân vật. Đó chỉ là hình ảnh thôi, hình ảnh của một nhân vật mà thôi. Nhưng hãy chú ý: đó là một ảnh; đó là một tượng.
Tại sao Đức Chúa Trời ban cho con người một ảnh tượng về chính mình Ngài? Vì vậy, người ấy sẽ bước đi bởi đức tin và tự do lựa chọn kính sợ và thờ phượng Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho con người đủ về chính mình Ngài để khiến cho con người biết khao khát và tìm kiếm Đức Chúa Trời. Con người chỉ có đủ hình ảnh của Đức Chúa Trời để tự vận dụng tìm kiếm sự bất tử và sống cho đến đời đời.

"Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp" (Phục truyền luật lệ ký 4:29).
"Hãy cầu Đức Giê-hô-va và quyền phép Ngài, Hãy tìm kiếm mặt Ngài luôn luôn" (Thi thiên 105:4).
"Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần!" (Êsai 55:6).
"Đức Giê-hô-va phán cùng nhà Y-sơ-ra-ên như vầy: Hãy tìm kiếm ta, thì các ngươi sẽ sống!" (Amốt 5:4).
"Hỡi các ngươi là mọi kẻ nhu mì của đất, làm theo mạng lịnh của Chúa, hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm sự nhu mì, hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va" (Sôphôni 2:3).
"hầu cho tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm cho được, dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta" (Công Vụ các Sứ Đồ 17:27).

Tư tưởng 5. Đức Chúa Jêsus Christ, một mình Ngài là ảnh tượng chính xác về Đức Chúa Trời (Hêbơrơ 1:3, đối chiếu Philíp 2:6-8).

3. Có một nhu cầu cần phải nhấn mạnh Đức Chúa Trời đã dựng nên cả hai: người nam và người nữ, theo chính ảnh tượng của Ngài. Người nữ được dựng nên bởi Đức Chúa Trời cũng như người nam; nàng được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời cũng y như người nam. Người nữ được ban cho sự trang trọng và vinh quang cũng y như người nam. Người nữ là mão triều thiên và là đỉnh cao của sự Đức Chúa Trời dựng nên loài người.

Tư tưởng 1. Loài người và xã hội xuống cấp và bắt phụ nữ làm nô lệ là sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Phụ nữ được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời; vì vậy, nữ giới cần phải được xem trọng, tôn cao y như nam giới. Họ cần phải được công nhận hầu chu toàn chức năng của họ trên đất với sự trang trọng và vinh dự y như nam giới có vậy. Đức Chúa Trời đã dựng nên người nữ để ăn ở trong vai trò bạn đồng hành với người nam, chớ không phải là nô lệ.

"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất" (Sáng thế ký 1:27-28).
"Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó" (Sáng thế ký  2:18).
"Một người nữ tài đức ai sẽ tìm được? Giá trị nàng trổi hơn châu ngọc" (Châm ngôn 31:10).
"Hãy chào Bê-rít-sin và A-qui-la, kẻ cùng làm việc với tôi trong Đức Chúa Jêsus Christ" (Rôma 16:3).
"Hãy chào Ma-ri, là người có nhiều công khó vì anh em" (Rôma 16:6).
"Hãy chào Try-phe-nơ và Try-phô-sơ, là hai người làm việc cho Chúa” (Rôma 16:12).
"[cho được ghi tên vào sổ đàn bà góa]...phải là người được tiếng khen vì việc phước đức mình, như đã nuôi con cái, đãi đằng khách lạ, rửa chân thánh đồ, cứu giúp kẻ khốn nạn, và làm đủ các việc phước đức”  (I Timôthê 5:10).

Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời dựng nên cả hai: người nam và người nữ. Mỗi người đều ra từ Đức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nầy cũng nhiều y như người kia. Mỗi người đều được dựng nên Đức Chúa Trời cũng như bởi Đức Chúa Trời.
Người nầy cũng quan trọng đối với Đức Chúa Trời y như người kia, đối với chương trình và mục đích của Ngài cho thế gian. Nới khác đi, cả hai: người nam và người nữ đều được dựng nên Đức Chúa Trời cũng như bởi Đức Chúa Trời; vì vậy mỗi người đều được dựng nên cho Đức Chúa Trời. Mỗi người, cả nam và nữ, cần phải sống cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, phục vụ và thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, Chúa Tể của mọi sự sống.

"Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát xướng mà đến trước mặt Ngài. Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài, là bầy chiên của đồng cỏ Ngài" (Thi thiên 100:2-3).

3. (1:28) Con người, Mục đích — Hôn nhân — Đất — Sự sáng tạo — Các loài động vật — Khoa học: Đức Chúa Trời ban phước cho người nam và người nữ. Đây là hình ảnh lần gặp gỡ của Đức Chúa Trời với người nam người nữ sau khi cả hai đã được dựng nên. Hãy hình dung Ađam (người đầu tiên) đã cảm nhận thế nào sau khi mình được dựng nên, khi thình lình mình đứng trên đất, kinh nghiệm khoảnh khắc đầu tiên của cuộc đời. Ông ý thức về bản thân mình và mọi sự ở chung quanh, vẻ đẹp và sự kết quả của đất, song mọi sự thật là kỳ lạ, một sự bối rối hoàn toàn. Ông là ai chứ? Ông đang ở đâu vậy? Ông phải làm gì đây? Hết thảy mọi thắc mắc nầy cần phải được giải đáp và giải đáp ngay sau khi ông được dựng nên. Cũng một thể ấy với Êva (người nữ đầu tiên).
Đây là hình ảnh những gì đã xảy ra trong Sáng thế ký 1:28-30. Đức Chúa Trời đang gặp gỡ mặt đối mặt với người nam và người nữ, ban phước cho họ và giải thích họ là ai và lý do tại sao họ được dựng nên và lý do tại sao họ có mặt trên đất. Hãy lưu ý, Đức Chúa Trời đã ban phước cho người nam và người nữ. Đâu là ơn phước? Đức Chúa Trời chúc phước cho người nam người nữ với...
+ đặc ân về sự hiện diện của Đức Chúa Trời, về mối tương giao với Đức Chúa Trời.
+ đặc ân về sự sống, cả hai: sự sống dự dật và sự sống đời đời.
+ đặc ân về việc được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời, về việc là mão triều thiên và là đỉnh cao trong sự sáng tạo của Ngài.
+ đặc ân về việc sống trên đất với mọi sự tiếp trợ về đồ ăn và vẻ đẹp của nó.
+ đặc ân là người nam và người nữ, về việc có một tình bạn với nhau.
+ đặc ân về sự sanh sản, về việc làm đầy dẫy đất với dòng giống của họ.
+ đặc ân về việc các loài thú đồng là bạn bè trên đất.
+ đặc ân về việc cai trị và quản trị mọi tạo vật của đất.
+ đặc ân về việc làm, về việc tìm thấy sự thỏa lòng và sự phu phỉ trong việc bắt phục đất — qua nghiên cứu, khám phá, phát triển.

Tư tưởng 1. Lưu ý: các ơn phước và những đặc ân được ban cho từng người nam và người nữ. Nhưng từng người đều có quyền xưng nhận các đặc ân, được sử dụng vì ích cho bản thân và cho xã hội — mọi sự trong sự vâng phục Đức Chúa Trời.

Tư tưởng 2. Hãy chú ý ơn phước của Đức Chúa Trời là cá nhân: "Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán cùng họ" (Sáng thế ký 1:28). Đức Chúa Trời phán với người nam người nữ theo cách riêng, mặt đối mặt. Được Đức Chúa Trời ban phước có nghĩa là Đức Chúa Trời...
+ giữ gìn chúng ta
+ chiếu sáng mặt Ngài trên chúng ta
+ giàu ơn đối với chúng ta
+ nâng đỡ chúng ta
+ và ban cho chúng ta sự bình an

"Cầu xin Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi và phù hộ ngươi! Cầu xin Đức Giê-hô-va chiếu sáng mặt Ngài trên ngươi, và làm ơn cho ngươi! Cầu xin Đức Giê-hô-va đoái xem ngươi và ban bình an cho ngươi!" (Dân số ký 6:24-26).

4. (1:28) Con người, Mục đích — Hôn nhân — Đất — Sự sáng tạo — Các loài thú đồng — Khoa học: Đức Chúa Trời ban cho người nam người nữ ba phần hành hay mục đích quan trọng.
1. Thứ nhứt, người nam và người nữ cần phải sanh sản và làm đầy dẫy đất. Đây là một phần hành tuyệt vời nhất. Người nam và người nữ cần phải thiết lập mối quan hệ gần gũi nhất — một mối quan hệ về tình yêu thương, sự quan phòng, tin cậy, và lòng trung thành với nhau. Họ cần phải ăn ở, làm việc, và thờ phượng tay trong tay khi họ hành trình qua cuộc sống với nhau. Mối quan hệ họ xây dựng để phục vụ là cơ sở CHO mọi mối quan hệ khác trên đất và trong vòng xã hội và các nước trên đất. Tất cả các nhóm ở trên đất — dù là xã hội hay các nước — cần phải ăn ở với nhau trong tình yêu thương, sự quan phòng, tin cậy, và lòng trung thành.
Lưu ý: Đức Chúa Trời đã dựng nên nhiều loài thú đồng, nhưng Ngài chỉ dựng nên một người nam và một người nữ. Tại sao chứ? Có ít nhất bốn lý do.
+ Để thiết lập gia đình: lập ra luật lệ, nguyên tắc một nam một nữ sống chung với nhau. Sẽ chẳng có phân cách hay ly dị — không có gia đình phân tán, không có đứa trẻ nào không cha hay không mẹ — khi Đức Chúa Trời lần đầu tiên dựng nên người nam và người nữ.
+ Để xây dựng tình yêu thương, sự tin cậy, và lòng trung thành trong vòng người nam người nữ được mạnh mẽ hơn. Tình yêu thương, sự tin cậy và lòng trung thành suy yếu đi và bị hủy diệt khi các mối quan hệ mật thiết được tải đi với những người khác. Khi tình yêu thương, sự tin cậy và lòng trung thành suy yếu đi trong sự ràng buộc mạnh mẽ nhất đối với người nam, trong gia đình, chúng bị suy yếu trong mọi mối quan hệ khác của cuộc sống: tại sở làm, lúc vui đùa, với xứ sở của một người.
+ Để dạy cho con người biết rằng mọi dân tộc đều chung một huyết thống, ra từ một nguồn. Vì lẽ đó, mọi dân tộc — mọi dòng giống và các dân tộc — cần phải sống trong hòa bình và hiệp một, cùng làm việc với nhau để bắt phục đất. Không nên có thành kiến, phân biệt, bạo lực, tham lam, ích kỷ, hay chiến tranh trên đất — không nên khi Đức Chúa Trời trước tiên dựng nên con người.
+ Để dạy cho con người biết rằng người nam quan trọng như người nữ, cũng như người nữ quan trọng như người nam, mọi thế hệ nối tiếp của người nam người nữ phải được đánh giá cao giống như người nam và người nữ đầu tiên ở đây. Sẽ chẳng có một sự lạm dụng, hay bắt người nam hoặc người nữ làm nô lệ trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Cả hai đều có quan hệ với sứ mệnh của Đức Chúa Trời cho địa cầu.

"Ngài trả lời rằng: Các ngươi há chưa đọc lời chép về Đấng Tạo Hóa, hồi ban đầu, dựng nên một người nam, một người nữ,  và có phán rằng: Vì cớ đó người nam sẽ lìa cha mẹ, mà dính díu với vợ mình; hai người sẽ cùng nên một thịt hay sao? Thế thì, vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!" (Mathiơ 19:4-6).

Tư tưởng 1. Hãy chú ý, con người đã đi bao xa rồi, họ đã sa ngã là dường nào, ra khỏi những phần hành nguyên thủy của Đức Chúa Trời. Hãy chú ý tất cả sự...
+ thành kiến
+ phân biệt đối xử
+ dân số quá tải
+ bạo lực
+ thù hận
+ chiến tranh
+ ích kỷ
+ tham lam
+ tình trạng nô lệ
+ ngược đãi vợ & con & chồng
+ lạm dụng chức vụ lãnh đạo
+ lạm dụng nhà cầm quyền

2. Thứ hai, người nam và người nữ cần phải bắt phục đất. (Xem Nghiên Cứu #3 — Sáng thế ký  1:28 để thảo luận).
3. Thứ ba, người nam và người nữ cần phải quản trị các loài động vật. Quản trị có nghĩa là cai trị, làm chủ, điều khiển, quản lý, giám sát và chăm sóc. Lúc nguyên thủy, khi Đức Chúa Trời đầu tiên dựng nên các loài động vật và con người, chắc chắn chẳng có tình trạng bạo lực giữa vòng các loài động vật. Con người hay động vật cũng không ăn thịt các loài động vật khác (Sáng thế ký 1:30, đối chiếu Sáng thế ký 9:3). Con người và động vật sống bên cạnh nhau trong hòa bình và rõ ràng với tình cảm dành cho nhau nữa — ít nhất giữa vòng đẳng cấp cao của động vật. Nhưng con người là nhân vật cai trị, lực lượng thống trị, cấp lãnh đạo giữa vòng mọi tạo vật của địa cầu.
Nhưng hãy chú ý điều chi đã xảy ra từ khi con người sa ngã và thế gian rơi vào chỗ đồi bại. Các loài động vật sống trong một thế giới tàn bạo, phải phấn đấu mới có đồ ăn và đánh nhau để sống còn nghịch lại các loài động vật khác. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời hứa một kỷ nguyên mới và một thời đại mới, một đất mới và một thế giới mới, khi sự trọn lành và bình an sẽ trị vì trên đất. Chiên con sẽ nằm cạnh sư tử. Một địa cầu được cải sửa lại, một trời mới đất mới, sẽ xảy đến.

"Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đang bú sẽ chơi kề ổ rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh của ta; vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Đức Giê-hô-va, như các dòng nước che lấp biển" (Êsai 11:6-9).
"Muông sói với chiên con sẽ ăn chung, sư tử ăn rơm như bò, rắn ăn bụi đất. Sẽ chẳng có ai làm tổn hại hay là hủy phá trong khắp núi thánh ta, Đức Giê-hô-va đã phán vậy" (Êsai 65:25).
"Trong ngày đó, ta sẽ vì chúng nó lập ước cùng những thú đồng, những chim trời, và côn trùng trên đất. Ta sẽ bẻ gãy và làm cho biến mất khỏi đất nầy những cung, những gươm, và giặc giã; và sẽ khiến dân sự được nằm yên ổn" (Ôsê 2:18).
"Ngài sẽ làm sự phán xét trong các nước, đoán định về nhiều dân. Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước nầy chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến tranh" (Êsai 2:4).
"Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt sắng của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ làm nên sự ấy!" (Êsai 9:6).
"Ai nấy sẽ ngồi dưới cây nho mình và dưới cây vả mình, không ai làm cho lo sợ; vì miệng Đức Giê-hô-va vạn quân đã phán" (Michê 4:4).

NGHIÊN CỨU #3  (1:28) Con người, Mục đích — Đất — Sự sáng tạo — Khoa học: Đức Chúa Trời truyền cho con người phải bắt phục đất. Sáng thế ký 1:28 chép: "hãy quản trị … trên mặt đất". Đây là sự phân công rất quan trọng. Hãy chú ý bốn sự kiện quan trọng.
1. Bắt phục và quản trị trên mặt đất có nghĩa là...
+ cai trị và làm chủ địa cầu.
+ giám sát và chăm sóc địa cầu.
+ đầu tư, nghiên cứu, và khám phá mọi tài nguyên của địa cầu.
+ phát triển và sử dụng mọi tài nguyên của địa cầu.
+ quản lý địa cầu với mọi tài nguyên của nó.
2. Đức Chúa Trời ban địa cầu cho cả hai: người nam và người nữ, đặt địa cầu dưới sự quan phòng của họ. Địa cầu là...
+ cả hai: quà tặng và bổn phận.
+ cả hai: cơ nghiệp và trách nhiệm..
+ cả hai: tài sản và nghĩa vụ.
+ cả hai: tín nhiệm và công việc.
Địa cầu ở dưới sự quan phòng của người nam và người nữ. Đức Chúa Trời ban địa cầu cho họ như món quà tặng, như một cơ nghiệp, như một sự tín nhiệm. Địa cầu giờ đây là tài sản của họ, quê hương và cơ nghiệp của họ. Nhưng địa cầu cũng là trách nhiệm của họ nữa. Đây là phần việc của người nam và người nữ — bổn phận và nghĩa vụ của họ  — giám sát địa cầu. Đức Chúa Trời đã đặt họ quản trị đất, quản trị tạo vật của Ngài. Vì vậy, quản trị địa cầu cho Đức Chúa Trời là bổn phận của họ.

Tư tưởng 1. Môi trường là vấn đề đối với Đức Chúa Trời; vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã đặt con người nắm quyền quản trị — giám sát — môi trường. Môi trường phải là vấn đề đối với con người. Con người không được làm ô nhiễm không khí và nước; họ không được làm ô nhiễm và hủy diệt đất cũng như các từng trời bên trên.

3. Đức Chúa Trời làm thỏa mãn hai trong số các nhu cần cơ bản nhất của con người trong phần hành nầy. Con người có các nhu cần cơ bản...
+ phải được yêu thương và thách thức.
+ yêu thương và phó sự sống mình cho một mục đích quan trọng.
Sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời trên địa cầu làm thỏa mãn mọi nhu cần của con người. Khi một người thực sự nhìn biết Đức Chúa Trời đã ban cho mình địa cầu làm cơ nghiệp, người ấy nhìn biết Đức Chúa Trời vốn yêu thương mình. Người ấy biết rõ Đức Chúa Trời giám sát mình với sự quan phòng và tình yêu thương sâu sắc nhất. Đáp lại, con người phải kính sợ Đức Chúa Trời. Sự Đức Chúa Trời ban địa cầu cho sẽ khuấy đảo con người đáp ứng lại với Đức Chúa Trời, kính mến Đức Chúa Trời y như Đức Chúa Trời đã yêu thương người vậy.
Sự phân công của Đức Chúa Trời khi bắt phục đất làm thỏa mãn nhu cần của con người đối với một mục đích quan trọng. Khi một người thực sự nhìn biết Đức Chúa Trời đã ban địa cầu cho để giám sát và quản trị, người ấy bị thách thức với mục đích quan trọng nhất trong các mục đích. Người bị thách thức phải phó mạng sống mình để siêng năng lao động rồi thực thi mọi đóng góp mà người có thể để phát triển đất cùng mọi xã hội của nó. Người bị thách thức phải yêu thương địa cầu và người nào cùng làm việc với người trong việc quan phòng đến đất. Người bị thách thức phải phó mình cho mục đích cao cả mà vì đó Đức Chúa Trời đặt người trên đất: bắt phục và quản trị đất thay cho Đức Chúa Trời.
Lưu ý: khi một người siêng năng lao động trong công việc của mình, siêng năng lao động để làm mọi sự người có thể để khiến đất thành ra một chỗ tốt hơn, người ấy ý thức được mục đích quan trọng, sự phu phỉ, và sự thỏa mãn. Ba việc lớn lao nầy — ý thức mục đích, phu phỉ và thỏa mãn — đều đến từ...
+ việc nhìn biết Đức Chúa Trời theo cách riêng.
+ việc nhìn biết lý do tại sao Đức Chúa Trời đã đặt chúng ta trên đất.
+ việc phó mạng sống mình cho Đức Chúa Trời và vì mục đích cao cả của Ngài cho con người: để bắt phục và phát triển đất đến chỗ đầy dẫy nhất của nó.
4. Khả năng của con người khi bắt phục đất đã bị hư hỏng và suy yếu đi — thực là vậy. Hãy chú ý ba sự kiện quan trọng:
a. Mục đích nguyên thủy của Đức Chúa Trời, khi trước tiên Ngài dựng nên con người, là đây: con người phải có một đời sống trọn vẹn, sống trong môi trường trọn vẹn. Người phải sống chỗ không tưởng nổi. Con người cần phải ở trong mối tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời, từng trải mục đích và sự phu phỉ trong việc bắt phục đất. Con người cần phải sống sao cho hạnh phúc thật trọn vẹn — thỏa lòng thật trọn vẹn — khi người lo liệu công việc mình làm phát triển và quản trị đất. Con người cần phải vận dụng nghiên cứu khoa học và kỷ thuật sẵn có; con người cần phải đầu tư, khám phá, và phát triển mọi tài nguyên của đất. Con người cần phải học biết về thế giới của mình và kiếm được tri thức có cần để làm cho quá trình kia ra thực. Rõ ràng, người có một tâm trí phải trọn vẹn với khả năng học hỏi, và người chỉ thần phục đối với Đức Chúa Trời mà thôi (Sáng thế ký 2:15-17).
b. Chính tội lỗi đã làm suy yếu và hư hỏng quyền tể trị và khả năng bắt phục đất của con người. Khi con người sa vào trong tội lỗi, địa cầu, thậm chí chính mình con người nữa, đang ở trong cơn thạnh nộ của bạo lực và đau khổ...
+ Thiên nhiên chịu hết tai vạ thiên nhiên nầy đến tai vạ thiên nhiên khác: bão táp, cuồng phong, lốc xoáy, giông tố, lụt lội, núi lửa phun trào, động đất, sấm chớp nguy hiểm, giông bão bạo lực, dịch lệ cào cào, đói kém, và còn nhiều thứ nữa. Thiên nhiên thường xuyên gánh chịu.
+ Con người gánh chịu với hết hành động bạo lực nầy đến hành động bạo lực khác: làm dụng trẻ em, ngược đãi vợ, ngược đãi chồng, cưỡng hiếp, tấn công, cắt xén, giết người, chiến tranh, cướp bóc, lừa đảo, trộm cắp, nói dối, tàn sát, hành động khủng bố, đốt phá, và còn nhiều thứ nữa.
+ Địa cầu đầy dẫy bịnh tật, dịch lệ và tai họa — mọi sự gây ra đau khổ và hủy diệt sự sống, nhiều mảng đất và các tài nguyên của nó.
Mục tiêu là đây: địa cầu — bản chất của nó — không còn chịu sự quản trị của con người nữa. Nó thường ở dưới quyền quản trị khi lần đầu tiên Đức Chúa Trời dựng nên con người. Nhưng không phải bây giờ, không phải kể từ khi con người loạn nghịch chống lại Đức Chúa Trời, không phải kể từ khi sự sa ngã kinh khủng của con người rơi vào tội lỗi. Tội lỗi đã làm hư hỏng và suy yếu sự cai trị của con người trên đất.
c. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa phục hồi quyền cai trị của con người trên đất, thực vậy, trên toàn vũ trụ. Bằng cách nào? Qua Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Jêsus Christ đã bảo đảm quyền cai trị và sự trị vì trên đất. Ngài sẽ trở lại với địa cầu, thiết lập chính phủ của Ngài, rồi phục hồi con người đến địa vị nguyên thủy của họ về quyền quản trị và chủ tể — cùng với chính mình Ngài.

"Chúa đáp rằng: Ai là người quản gia ngay thật khôn ngoan, chủ nhà đặt coi cả người nhà mình, để đến dịp tiện, phát lương phạn cho họ? Phước cho đầy tớ ấy khi chủ nhà về, thấy làm như vậy! Quả thật, ta nói cùng các ngươi, chủ sẽ cho nó quản lý cả gia tài mình" (Luca 12:42-44).
"Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài" (Rôma 8:16-17).
"Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay; không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi trông đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy" (Rôma 8:20-23).
"Anh em há chẳng biết các thánh đồ sẽ xét đoán thế gian sao? Ví bằng thế gian sẽ bị anh em xét đoán, thì anh em há chẳng đáng xét đoán việc nhỏ mọn hơn sao? Anh em chẳng biết chúng ta sẽ xét đoán các thiên sứ sao? Huống chi việc đời nầy!" (I Côrinhtô 6:2-3).
"lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị; nếu chúng ta chối Ngài, thì Ngài cũng sẽ chối chúng ta" (II Timôthê 2:12).
"Nhưng có kẻ đã làm chứng rằng: Loài người là gì, mà Chúa nhớ đến? Con người là ai, mà Chúa săn sóc đến? Chúa đã đặt Người ở dưới thiên sứ một chút; Cho Người đội mão triều vinh hiển tôn trọng; Và đặt mọi vật dưới chân người. Đức Chúa Trời đã khiến mọi vật phục Đức Chúa Jêsus như vậy; thì chẳng để cho một vật nào chẳng phục Ngài; song hiện nay chúng ta chưa thấy mọi vật phục Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus nầy, mà đã ở dưới các thiên sứ một chút, chúng ta thấy Ngài, vì sự chết Ngài đã chịu được đội mão triều vinh hiển tôn trọng. Ấy vậy, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus đã vì mọi người nếm sự chết" (Hêbơrơ 2:6-9).
"Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chết bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả. Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi! Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở" (II Phierơ 3:10-13).
"và Ngài đã làm cho những người ấy nên nước, và thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất" (Khải huyền 5:10).
"Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa ... Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết ,cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi” (Khải huyền 21:1, 4).
"Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; chúng sẽ được thấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời" (Khải huyền 22:3-5).

Tư tưởng 1. Con người cần phải làm hai việc:
1) Con người cần phải ăn năn, xây lại cùng Đức Chúa Trời.

"Phi-e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-tem, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh" (Công Vụ các Sứ Đồ 2:38).
"Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi, hầu cho kỳ thơ thái đến từ Chúa" (Công Vụ các Sứ Đồ 3:19-20).
"Vậy, hãy ăn năn điều ác mình, và cầu nguyện Chúa, hầu cho ý tưởng của lòng ngươi đó họa may được tha cho" (Công Vụ các Sứ Đồ 8:22).
"và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ" (II Sử ký 7:14).
"Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng; hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào" (Êsai 55:7).
"Song nếu kẻ dữ xây bỏ hết thảy tội mình đã phạm, nếu nó giữ mọi luật lệ ta, và nếu nó làm theo luật pháp và hiệp với lẽ thật, chắc thật nó sẽ sống và không chết đâu" (Êxêchiên 18:21).
"Hãy liệng xa các ngươi mọi sự phạm pháp mà tự mình đã làm. Hãy làm cho mình lòng mới và thần mới; vì, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, làm sao mà các ngươi muốn chết?" (Êxêchiên 18:31).

2) Con người cần phải tìm kiếm Đức Chúa Trời để được khôn ngoan trong việc tìm cách bắt phục và khống chế đất. Khả năng quản trị đất của chúng ta và bản chất đồi bại của nó đã bị suy yếu và hư hỏng đi, nhưng chúng ta cần phải lao động tích cực để bắt phục mọi sự chúng ta có thể. Mọi tình trạng bạo lực và đồi bại — cả trong thiên nhiên và trong con người — cần phải được khống chế với hết khả năng của chúng ta. Đức Chúa Trời có thể ban cho chúng ta sự khôn ngoan khi chúng ta lao động để điều khiển nó, nếu chúng ta chịu cầu hỏi Ngài.

" Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở" (Mathiơ 7:7-8).
"Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc ai, thì kẻ ấy sẽ được ban cho. Nhưng phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ; vì kẻ hay nghi ngờ giống như sóng biển, bị gió động và đưa đi đây đi đó. Người như thế chớ nên tưởng mình lãnh được vật chi từ nơi Chúa: ấy là một người phân tâm, phàm làm việc gì đều không định" (Giacơ 1:5-8).
"Hỡi anh em yêu dấu, chớ tự dối mình: mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào" (Giacơ 1:16-17).

5. (1:29-30) Đồ ăn — Rau cỏ —Đời sống thực vật — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời cung ứng rau cỏ của đất để nuôi dưỡng con người và động vật. Hãy nhớ: Đức Chúa Trời đang gặp gỡ với con người, chia sẻ con người là ai và lý do tại sao người được dựng nên và được đặt ở trên đất (xem chú thích 3 — Sáng thế ký 1:28 để thảo luận). Hãy chú ý vài sự kiện:
1. Con người và động vật là loài ăn chay trong sự sáng tạo nguyên thủy của địa cầu. Chẳng có một việc gì là ăn thịt cả. Ăn thịt chỉ đến sau khi có sự sa ngã (Sáng thế ký  9:3).
2. Con người và động vật được ban cho đồ ăn dư dật: các thứ rau cỏ, hoa quả. Họ được ban cho từng thứ thực vật có hột giống và từng cây kết quả.
3. Hết thảy đất đai của địa cầu đều kết quả. Có sự sống của rau cỏ và thực vật ở khắp nơi, và nhiều vô số. Hãy chú ý câu: "mọc khắp mặt đất" (Sáng thế ký 1:29). Rõ ràng, chẳng có đất nào là hoang vu hay trơ trụi ở trên đất.
4. Kể từ khi con người sa vào trong tội lỗi, đất và tình trạng kết quả của nó đã bị ảnh hưởng. Con người đã lạm dụng và tiếp tục lạm dụng đất và đời sống thực vật hay rau cỏ của nó, thậm chí lên tới điểm đe dọa sự sinh tồn của các thế hệ tương lai. Con người đang hủy diệt nhanh chóng đời sống thực vật của địa cầu bằng cách phát triển nhà ở và thương mại và bằng cách làm ô nhiễm. Con người đang làm ô nhiễm và san phẳng đất đai của địa cầu nhanh đến nỗi mọi tài nguyên của đất đã bị làm cho cạn kiệt cách thê thảm. Chúng đang bị làm cho cạn kiệt bởi...
+ mưa acid
+ hủy diệt rừng nhiệt đới và đời sống thực vật khác
+ rác thải hóa học đe dọa nhiều nơi
+ thất bại không tái chế được các loại vật chất không còn sử dụng nữa

Tư tưởng 1. Ân điển và sự quan phòng của Đức Chúa Trời rõ ràng được thấy có ở phân đoạn Kinh thánh nầy. Đức Chúa Trời đã tiếp trợ cho con người, tiếp trợ đủ rau cỏ và hoa quả để nuôi mọi người. Con người chỉ có một trách nhiệm mà thôi:

"Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa" (Mathiơ 6:33).
"Sự công bình Chúa giống như núi Đức Chúa Trời; Sự đoán xét Chúa khác nào vực rất sâu. Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài bảo tồn loài người và thú vật" (Thi thiên 36:6).

Tư tưởng 2. Đất và bản chất của nó tạo ra tình trạng kết quả và đồ ăn được ban cho bởi Đức Chúa Trời. Con người được trao cho trách nhiệm phải "bắt phục đất" — sử dụng đất để kết quả giống như nhiều mùa gặt là có cần. Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen và tin cậy vì thực phẩm nào là cần thiết để trưởng dưỡng địa cầu. Nhưng trong khi ngợi khen và tin cậy Đức Chúa Trời, con người cần phải làm việc để có bánh ăn cho mình.

"Khi chúng tôi ở cùng anh em, cũng đã rao bảo cho anh em rằng: nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa. Vả, chúng tôi nghe trong anh em có kẻ ăn ở bậy bạ, chẳng hề làm lụng, trở chăm những sự vô ích thôi. Chúng tôi nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ, bảo và khuyên những kẻ đó phải yên lặng mà làm việc, hầu cho ăn bánh của mình làm ra. Hỡi anh em, phần anh em chớ nên chán mệt làm sự lành" (II Têsalônica 3:10-13).
"ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em, hầu cho ăn ở với người ngoại cách ngay thẳng, và không thiếu chi hết" (I Têsalônica 4:11-12).

Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời đã ban đồ ăn cho con người để nâng đỡ sự sống của họ. Con người không nên tìm kiếm đồ ăn để tiêu thụ nó cho tư dục của mình. Con người nên tìm kiếm đúng số lượng đồ ăn nào là cần thiết để nâng đỡ sự sống của mình.

"Trong lòng họ thử Đức Chúa Trời, Mà cầu xin đồ ăn theo tình dục mình" (Thi thiên 78:18).
"Vả, Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, nên cầu xin người làm đầu hoạn quan để đừng bắt mình phải tự làm ô uế”  (Đaniên 1:8, đối chiếu Đaniên 1:8-15).

Tư tưởng 4. Con người nên nhận lãnh đồ ăn bằng cách dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì cớ đồ ăn đó.

"Nói như vậy rồi, người bèn lấy bánh, đứng trước mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời rồi, thì bẻ ra và ăn" (Công Vụ các Sứ Đồ 27:35).

6. (1:31) Con người — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời nhìn thấy sự sáng tạo của Ngài là "tốt lành" — mọi sự được dựng nên trong sáu ngày sáng tạo, kể cả loài người, phu phỉ chức năng của nó. Câu nầy đề cập tới mọi sự trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Nó đề cập tới con người, phải, nhưng Đức Chúa Trời cũng đang nhìn lại xem mọi sự mà Ngài đã dựng nên. Hãy chú ý hai sự kiện:
1. Con người có khả năng chu toàn mục đích và chức năng của mình ở trên đất. Con người được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời: con người có chính hơi thở — sự sống bất tử — của Đức Chúa Trời. Vì cớ đó, con người có...
+ khả năng thờ phượng, tương giao, và giao thông với Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 1:26-27).
+ khả năng cư trú trên đất (Sáng thế ký 1:28).
+ khả năng phục vụ Đức Chúa Trời bằng cách bắt phục, phát triển, và quản trị đất (Sáng thế ký 1:28).
+ khả năng được trưởng dưỡng và nâng đỡ bởi mọi tài nguyên của đất (Sáng thế ký 1:29-30).
2. Đức Chúa Trời nhìn vào mọi sự mà Ngài đã dựng nên, và "kìa, mọi việc thật rất tốt lành" (Sáng thế ký 1:31). Từ ngữ "Kìa" kêu gọi sự chú ý sự sáng tạo của Đức Chúa Trời tốt lành — trọn vẹn — là dường nào. Đức Chúa Trời cực kỳ đẹp lòng với sự sáng tạo của Ngài. Mọi sự đều rất tốt lành, trọn vẹn đến từng chi tiết. Mọi sự chính xác y như Đức Chúa Trời đã hoạch định: mọi sự đều trọn vẹn trong sự nâng đỡ con người ở trên đất, trọn vẹn trong việc cung ứng một ngôi nhà cho con người khi họ lo chu toàn mục đích mà Đức Chúa Trời người đã ban cho ở trên đất.

Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời nhìn lại công việc của Ngài rồi đánh giá nó — một bài học dành cho con người khi họ làm việc và phục vụ. Con người đáng phải nói: "Tôi tư tưởng về đường lối tôi, Bèn trở bước tôi về chứng cớ Chúa" (Thi thiên 119:59).

Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời nhìn lại và thấy rõ mọi sự — phu phỉ chức năng của nó. Chính mình Đức Chúa Trời đề ra một tấm gương cho con người: mọi sự đều tốt lành và phu phỉ chức năng của nó. Mọi sự trong đời sống của con người đều có mục đích, lên tới một cấp độ tối hậu (Côlôse 3:17, 23).

"Ngươi hãy hầu việc Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; Ngài sẽ ban ơn cho vật ăn uống của ngươi và tiêu trừ các bịnh hoạn giữa vòng ngươi" (Xuất Êdíptô ký 23:25).
"Vậy, hỡi Y-sơ-ra-ên, bây giờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đòi ngươi điều chi? há chẳng phải đòi ngươi kính sợ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, đi theo các đạo Ngài, hết lòng hết ý kính mến và phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi" (Phục truyền luật lệ ký 10:12).
"Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ, Và mừng rỡ cách run rẩy" (Thi thiên 2:11).
"vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả" (Rôma 14:8).
"lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình" (II Côrinhtô 5:15).
"Mặc dầu anh em nói hãy làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha" (Côlôse 3:17).
"Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta" (Côlôse 3:23).
"Như vậy, vì chúng ta có phần trong một nước không hay rúng động, nên hãy cảm ơn, hầu cho lấy lòng kính sợ hầu việc Đức Chúa Trời một cách đẹp lòng Ngài" (Hêbơrơ 12:28).

Tư tưởng 3. Những gì Đức Chúa Trời dựng nên, Ngài đã nom thấy. Ngài nhìn thấy mọi sự mà Ngài đã dựng nên. Đây là lời bảo đảm quan trọng cho người công bình khi họ có nhu cầu. Đây cũng là lời cảnh cáo cho kẻ ác khi họ phạm tội. Không một điều gì tránh thoát được mắt Ngài hay sự hiện diện của Ngài (Thi thiên 139:1-16).

"Vì mắt ta chăm chỉ mọi đường lối chúng nó, không giấu khỏi trước mặt ta được, tội lỗi chúng nó không khuất khỏi mắt ta đâu" (Giêrêmi 16:17).
"Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! các ngươi đã nói làm vậy; vì ta biết những sự nghĩ trong trí các ngươi" (Êxêchiên 11:5).
"Chúng nó không nghĩ trong lòng rằng ta nhớ mọi sự gian ác của chúng nó. Bây giờ tội phạm chúng nó ràng rịt lấy mình; chúng nó ở trước mặt ta" (Ôsê 7:2).
"Vì Đức Chúa Trời sẽ đem đoán xét các công việc, đến đỗi việc kín nhiệm hơn hết, hoặc thiện hoặc ác cũng vậy" (Truyền đạo 12:14).
"Chẳng có sự gì giấu mà không phải lộ ra, chẳng có sự gì kín mà không được biết" (Luca 12:2).
"Vậy, chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến; chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh" (I Côrinhtô 4:5).

Tư tưởng 4. Lúc cuối đời, một người có khả năng nhìn lại cuộc đời mình và hãy nói y như Đức Chúa Trời đã phán: "Mọi sự đều rất tốt lành!"

Tư tưởng 5. Đức Chúa Trời nhìn thấy: "Mọi sự đều rất tốt lành!" — phu phỉ chức năng của nó (Sáng thế ký 1:31). Những gì Đức Chúa Trời bắt đầu, Ngài sẽ làm thành. Điều nầy cũng rất thực trong ơn cứu rỗi. Đức Chúa Trời sẽ hoàn tất ơn cứu rỗi của Ngài.

"tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ" (Philíp 1:6).
"Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó" (I Têsalônica 5:24).
"ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó" (II Timôthê 1:12).
"là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!" (I Phierơ 1:5).
"Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được, là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men" (Giuđe 24-25).