Sáng thế ký 1:26-31: “Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên
loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim
trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa
Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình
Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước
cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy
làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài
cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất. Đức
Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc
khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các
ngươi. Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật
khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh
đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy. Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm
thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu”.
BỐ CỤC:
SÁNG THẾ KÝ: PHẦN I
SỰ DỰNG NÊN CÁC TỪNG TRỜI VÀ ĐẤT, 1:1-2:3
I. Ngày thứ sáu (Phần 2): Dựng nên con
người, người nam và người nữ, 1:26-31
(1:26-31) Phần giới thiệu: khi Đức Chúa Trời dựng nên vũ trụ, Ngài đã dựng
nên bằng nhiều chặng. Ở chặng thứ nhứt, Ngài treo các ngôi sao và địa cầu trên
khoảng không không. Hết thảy chúng đều ở chỗ bất toàn, chưa hoàn tất, và không
kết quả được. Bản thân địa cầu bị bao phủ với một đại dương mênh mông: cả đất
bị đặt ở dưới một đại dương gồm những cơn sóng gào thét, thịnh nộ. Thêm nữa, có
một lớp sương mù dày đặc — một lớp sương mù và mây mù dày đặc — bao bọc lấy cả
đất. Hãy tưởng tượng xem! Địa cầu bị bao phủ với một đám mây dày đặc giờ đây đã
dấy cao lên bầu trời chừng vài ngàn feet. Điều nầy có ý nói rằng địa cầu bị
nhận chìm trong bóng tối đen kịt (xem chú
thích 4, Nghiên Cứu Sâu Hơn #4 — Sáng thế ký 1:2 để thảo luận).
Đây là địa cầu thời nguyên thủy; đây là cách thức hành tinh của chúng ta trước
khi Đức Chúa Trời bắt đầu sáu ngày sáng tạo. Nhưng Đức Chúa Trời không dựng nên
địa cầu để cứ mãi ở trong chặng đường nguyên thủy. Ngài dựng nên địa cầu để làm
nơi ở cho con người. Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã mở ra các hành động sáng tạo
quan trọng của Ngài; Đức Chúa Trời đã mở ra sáu ngày sáng tạo quan trọng:
+ Vào ngày thứ nhứt: Đức Chúa Trời dựng nên
sự sáng (Sáng thế ký 1:3-5).
+ Vào ngày thứ hai: Đức Chúa Trời dựng nên
khoảng không (bầu không khí và khoảng
không gian ngay phía trên địa cầu) (Sáng thế ký 1:6-8).
+ Vào ngày thứ ba: Đức Chúa Trời dựng nên
biển, đất khô, và rau cỏ (Sáng thế ký 1:9-13).
+ Vào ngày thứ tư: Đức Chúa Trời phân phối ánh
sáng trên địa cầu, phân biệt ngày và đêm, mùa và năm (Sáng thế ký 1:14-19).
+ Vào ngày thứ năm: Đức Chúa Trời dựng nên
các tạo vật lội dưới biển và bay trên không (Sáng thế ký 1:20-23).
+ Vào ngày thứ sáu, nửa đầu của ngày nầy:
Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú đồng (Sáng thế ký 1:24-25).
Giờ đây, vào nửa phần sau
của ngày thứ sáu, hành động sáng tạo sau cùng diễn ra. Hành động sáng tạo nầy
được tôn cao và là đỉnh cao sáng tạo của Đức Chúa Trời. Sau hành động sáng tạo
nầy, địa cầu sẽ hoàn toàn được đầy dẫy với những tạo vật do Đức Chúa Trời dựng
nên. Sẽ chẳng có thêm sự sáng tạo nào nữa, chẳng có ở trên địa cầu. Địa cầu sẽ
có loài thọ tạo trở thành nhân vật cai trị và bảo hộ của nó: là con người. Con người là loài thọ tạo theo kiểu
tiệm tiến của Đức Chúa Trời. Con người là tạo vật mà Đức Chúa Trời đã hoạch
định và dựng nên có mục đích cho đến đời đời — từ lâu, rất lâu trước khi địa
cầu được dựng nên. Đây là chủ đề của phân đoạn Kinh thánh quan trọng nầy, phân
đoạn bao trùm hành động sáng tạo tiệm tiến của Đức Chúa Trời: "Sự
Dựng Nên Con Người, Người Nam
Và Người Nữ".
NGHIÊN
CỨU #1 (1:26-31) Con người, Sự dựng nên
— Các loài động vật: con người là đỉnh cao sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Con
người không chỉ là một tạo vật. Con người là một hữu thể đặc biệt được hình
thành trong tâm trí của Đức Chúa Trời. Đây là lẽ thật mà con người cần phải
biết để hiểu rõ về bản thân mình.
+ Con người thuộc về đất, mà con người cũng
thuộc về Đức Chúa Trời nữa.
+ Con người thuộc về thế giới vật lý, con
người cũng thuộc về thế giới thuộc linh nữa. Con người là xác thịt, con người
cũng là linh hồn.
+ Con người có quan hệ với các loài động
vật của địa cầu, con người cũng có quan hệ với Đức Chúa Trời nữa.
Nơi con người, cả hai:
xác thịt và tâm linh được hòa lại với nhau. Nơi con người, cả đất và trời được
tiêu biểu cho. Nơi con người, cả bây giờ và cõi đời đời đều mong muốn. Nơi con
người, cả thế giới thuộc thể và thế giới thuộc linh đều kinh qua. (Xem chú thích — Rôma 8:28-39, đối chiếu Rôma 8:2; I Côrinhtô 3:1-3. Đối chiếu Rôma 8:1, 5f…; Galati 5:17).
Con người có quan hệ với
các loài động vật, và con người khác biệt với các loài động vật như thế nào?
Con người dự phần với các loài động vật thuộc về câu chuyện sáng tạo.
1. Sự sáng tạo: con người được dựng nên từ bụi đất, các loài động vật cũng
vậy (Sáng thế ký 2:7, 19. Xem chú thích — Sáng thế ký 1:24).
2. Dinh dưỡng: con người sống thuộc về đất, các loài vật sống cũng vậy (Sáng thế ký 1:29-30).
3. Sinh sản: con người mang lấy dòng giống con người bởi cùng tiến
trình các loài vật mang lấy giống dòng của chúng — bằng cách sinh sản (Sáng thế ký 1:22, 28).
4. Bản chất: các loài động vật được dựng nên vì con người (na ná với con người). Có một sự kết hợp
gần gũi giữa con người và các loài động vật (Sáng thế ký 2:18-19, đối chiếu Sáng thế ký
6:19f…; Sáng thế ký 8:18-19).
Con người khác biệt với
các loài động vật ít nhất trong bốn cách thức quan trọng. (Cần phải chú ý là cho dù có những điểm tương đồng giữa con người và
các loài động vật, phần nhấn mạnh của Sáng thế ký đặt trên sự phân biệt của con
người. Con người là đỉnh cao sự sáng tạo của Đức Chúa Trời [Thi thiên 8:5-8]).
1. Con người khác
biệt với các loài động vật trong tâm
trí và trong tấm lòng của Đức Chúa Trời. Có một "Ý
Đồ Thiêng Liêng" cần phải
giữ lấy để thảo luận về sự sáng tạo con người (xem Nghiên Cứu #2 — Sáng thế ký 1:26). Đức Chúa
Trời giữ con người rất thiết trong tấm lòng của Ngài (Châm ngôn 8:31; Giăng 3:16).
2. Con người khác
biệt với các loài động vật trong lời Kinh thánh. "Chúng ta hãy dựng nên [con người]" nhấn mạnh hành động trực tiếp và phân biệt của
Đức Chúa Trời hơn "Đất phải sanh các vật sống" (đối chiếu
Sáng thế ký 1:24, 26). Lời Kinh thánh chỉ thẳng ra một hữu thể
thiêng liêng, khôn ngoan, và quyền phép đang dựng nên — một hữu thể là chủ của
địa cầu chẳng ai khác hơn là Đức Chúa Trời.
3. Con người khác
biệt với các loài động vật trong cách thức Đức Chúa Trời dựng nên con người.
Đức Chúa Trời hà hơi của chính Ngài — Thánh Linh và sự sống của Ngài — vào con
người (Sáng thế ký 2:7).
4. Con người khác biệt với các loài thú
đồng theo chức năng.
Con người được ban cho quyền quản trị "trên cả đất", kể cả quản trị trên các loài động vật (xem Nghiên Cứu #3—Sáng thế ký 1:28, đối chiếu Sáng thế ký 2:19; Thi thiên 8:4-8; Giacơ 3:7).
1. (1:26) Con người —
Sự Sáng Tạo — Địa cầu — Ba Ngôi Đức Chúa Trời: Lời của Đức Chúa Trời đã dựng nên con người.
Con người hiện hữu vì Đức Chúa Trời phán con người phải hiện hữu. Đức Chúa Trời
sử dụng quyền phép Lời của Ngài để dựng nên con người. Đức Chúa Trời chỉ phán thì
con người bước vào hiện hữu. Đức Chúa Trời phán thì mọi luật lệ khiến con người
hình thành liền đi vào hoạt động. Đức Chúa Trời phán, và các yếu tố cơ bản —
những nguyên tử, phân tử, proton, neutron, electron, genes, DNA, và bất cứ yếu
tố cơ bản nào từng được khám phá dựng nên sự sống con người — bước vào sự hiện hữu.
Đức Chúa Trời phán, và quyền phép Lời Ngài hình thành và dựng nên con người. Có
ba điểm rất đặc biệt trong câu nầy.
1. Đức
Chúa Trời tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, một cuộc mưu luận thiêng liêng, để
dựng nên con người. Hãy chú ý những gì Đức Chúa Trời đã phán: "Chúng ta hãy làm nên...như hình ta...theo
tượng ta". Đây
là số nhiều. Đức Chúa Trời đang phán với Đấng Christ, Con của Ngài, và với Đức
Thánh Linh. Làm sao chúng ta biết được điều nầy?
+ Thứ nhứt, vì Đức Chúa Jêsus Christ đã tỏ
ra Ba Ngôi Đức Chúa Trời cho chúng ta biết (Giăng 14:16-17, 26). Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức
Thánh Linh hiện đang tồn tại. Hết thảy Ba Ngôi đang hiện hữu trong sự hiệp một
trọn vẹn. Hết thảy họ đều có một tâm trí và mục đích. Vì vậy, họ phải bàn bạc
và cùng nhau quyết định nhiều sự việc giống như bất kỳ một gia đình nào hiệp
một phải lo liệu vậy.
+ Thứ hai, vì Kinh thánh tỏ ra rằng tất cả
Ba Thân Vị Đức Chúa Trời đều dính dáng vào công cuộc sáng tạo (Sáng thế ký 1:1; Sáng thế ký 1:2; Giăng 1:3; Côlôse 1:16; Hêbơrơ 1:1-2). Ba ngôi Đức Chúa Trời chắc chắn
đã bàn bạc trong khi họ dựng nên địa cầu. Quả là bất hợp lý khi nghĩ họ sẽ
không bàn bạc công việc của họ.
+ Thứ ba, vì Đức Chúa Trời sử dụng số nhiều
ở đây trong sách Sáng thế ký. Đức Chúa Trời phán: "Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta
theo tượng ta". Đức
Chúa Trời không bảo các thiên sứ cũng không bảo bất kỳ tạo vật nào khác ở trên
trời rằng họ phải cùng nhau làm việc để dựng nên con người. Đức Chúa Trời, chớ
không phải các hữu thể thiên thượng, đang dựng nên con người. Con người là loài
thọ tạo của Đức Chúa Trời và của chỉ một mình Đức Chúa Trời. Đức Chúa Cha, Đức
Chúa Con, và Đức Thánh Linh — Ba Ngôi Đức Chúa Trời trọn vẹn, mọi sự Đức Chúa
Trời dựng nên là: con người, mão triều thiên và sự vinh hiển của Ngài.
+ Thứ tư, vì Đức Chúa Trời đã dựng nên con
người theo ảnh tượng của chính Ngài. Đức Chúa Trời không dựng nên con người
theo ảnh tượng của các thiên sứ, cũng không dựng nên theo bất kỳ một hữu thể
thiên thượng nào khác. Đây không phải là phần nhấn mạnh của hành động sáng tạo
nầy. Phần nhấn mạnh là đây: Đức Chúa Trời đã dựng nên con người theo chính
ảnh tượng và theo một mình ảnh tượng của Ngài mà thôi. "Chúng ta hãy làm nên loài người" đang đề cập tới Đức Chúa Cha đang trao đổi với
Đức Chúa Con và với Đức Thánh Linh. Con người mang lấy chính ảnh tượng của
chính mình Đức Chúa Trời. Con người được dựng nên...
+ theo ảnh tượng của Đức Chúa Cha.
+ theo ảnh tượng của Đức Chúa Con.
+ theo ảnh tượng của Đức Thánh Linh.
Mục tiêu là đây: Đức Chúa
Trời đã tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, một cuộc mưu luận thiêng liêng, để
dựng nên con người. Đức Thánh Linh, Đấng cảm thúc Kinh thánh, đang sử dụng số
nhiều "chúng ta hãy" để nói cho chúng ta biết sự việc nầy. Nói như thế không
phải là nói toàn bộ giáo lý về Ba Ngôi Đức Chúa Trời được dạy dỗ ở đây. Nói như
thế thì là dại dột lắm. Chẳng có ai biết Hữu Thể Ba Ngôi Đức Chúa Trời nếu
chúng ta chỉ đọc câu chuyện Sáng thế ký nói tới sự sáng tạo và bất chấp Tân
Ước. Thế nhưng khi chúng ta đọc và để ý đến số nhiều, hột giống Ba Ngôi Đức
Chúa Trời được gieo vào lý trí của chúng ta. Và chúng ta biết nói như thế có
nghĩa gì vì cớ sự khải thị của Đức Chúa Jêsus Christ và của Kinh thánh như một
tổng thể. Chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh đã cảm thúc Kinh thánh, rằng Ngài
đã dẫn dắt trước giả của sách Sáng thế ký phải sử dụng số nhiều. Tại sao chứ?
Để tỏ ra sự oai nghi và vinh quang lớn lao của con người. Con người được ban
cho đặc ân vinh hiển là được dựng nên bởi tất cả các Ngôi của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đã tổ chức một hội nghị quan trọng để hoạch định sự sáng tạo của
con người. Sự sáng tạo của con người cần phải rất đặc biệt, thật tiệm tiến — là
mão triều thiên và vinh hiển của công cuộc sáng tạo — đến nỗi Đức Chúa Trời đã
triệu tập một hội nghị rất quan trọng để bàn bạc vấn đề, một cuộc họp thiêng
liêng bao gồm...
+ Đức Chúa Cha
+ Đức Chúa Con
+ Đức Thánh Linh
(Xem Nghiên Cứu #1 — Sáng thế ký 3:22 để thảo luận).
Tư tưởng 1. Tất cả ba
Thân vị Đức Chúa Trời đã bàn luận rồi dấn thân theo cách riêng vào công cuộc
sáng tạo con người. Khi người tin Chúa thực sự suy gẫm về lẽ thật vinh hiển
nầy, tấm lòng của người sẽ rung động với sự phấn khích. Người nhìn thấy Đức
Chúa Trời đã hoạch định mình với một chương trình rất đặc biệt và Đức Chúa Trời
chăm sóc cho người với một sự chăm sóc và tình yêu thương rất đặc biệt. Đức
Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh hết thảy đều dấn thân vào việc hoạch
định và dựng nên người. Chương trình của Đức Chúa Trời cho sự sáng tạo vốn quan
trọng đến nỗi nó đòi hỏi sự đầy dẫy hiện diện, tình yêu thương và sự quan phòng
của Đức Chúa Trời.
"Chúa sai Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên;
Chúa làm cho mặt đất ra mới" (Thi thiên 104:30).
"Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm
nên mà không bởi Ngài" (Giăng 1:3).
"Vì muôn vật đã được dựng nên trong Ngài, bất luận
trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc
quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi Ngài và vì Ngài mà
được dựng nên cả" (Côlôse 1:16).
"Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri
phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy,
Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật,
lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian" (Hêbơrơ 1:1-2).
Tư tưởng 2. Ban đầu, Đức
Chúa Trời tổ chức một hội nghị rất đặc biệt, một cuộc bàn bạc thiêng liêng để
dựng nên con người. Hôm nay, Đức Chúa Trời ban bố một hy vọng rất đặc biệt dành
cho con người: sự cứu chuộc. Kể từ khi con người sa ngã vào trong tội lỗi và sự
chết, Đức Chúa Trời (toàn bộ Ba Ngôi Đức
Chúa Trời) đã năng động dấn thân vào sự tái tạo và cứu chuộc con người.
Trong sự sáng tạo ban đầu, Đức Chúa Trời sai phái cả hai: Con Ngài và Thánh
Linh Ngài, để dựng nên con người. Giờ đây, trong sự tái tạo — do sự sa ngã của
con người đòi hỏi — Đức Chúa Trời đã sai cả hai: Con của Ngài và Thánh Linh của
Ngài để tái tạo con người (sự sanh lại).
Tất cả ba Thân Vị của Đức Chúa Trời đã năng động dấn thân vào sự cứu chuộc con người,
trong sự tái tạo con người, giống như trong sự dựng nên con người lúc ban đầu.
Tất cả ba Thân Vị Đức Chúa Trời đã tìm cách cứu chuộc con người.
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã
ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống
đời đời" (Giăng 3:16).
"Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi
một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế
gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các
ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi. Ta không
để cho các ngươi mồ côi đâu, ta sẽ đến cùng các ngươi" (Giăng
14:16-18).
"Dầu vậy, ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích
lợi cho các ngươi; vì nếu ta không đi, Đấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi
đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian
tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không
tin ta; về sự công bình, vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng thấy ta nữa;
về sự phán xét, vì vua chúa thế gian nầy đã bị đoán xét. Ta còn có nhiều chuyện
nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc
nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không
nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự
sẽ đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà
rao bảo cho các ngươi. Mọi sự Cha có, đều là của ta; nên ta nói rằng Ngài sẽ
lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi vậy" (Giăng
16:7-15).
"Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa
Trời dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời. Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần
trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự
làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm
chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng
ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự
với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được
vinh hiển với Ngài" (Rôma 8:14-17).
2. Đức
Chúa Trời đã dựng nên con người làm một tạo vật rất đặc biệt: con người được
dựng nên theo chính ảnh của Đức Chúa Trời, theo chính tượng của Đức Chúa Trời (xem phần 1 ở trên để thảo luận).
3. Đức Chúa
Trời đã dựng nên con người vì một mục đích rất đặc biệt: để quản trị trên cả
đất. Đức Chúa Trời đã hoạch định và dựng nên con người với một sự vinh quang và
trách nhiệm rất đặc biệt: để giám sát mọi sự mà Ngài đã dựng nên (xem Nghiên Cứu #3—Sáng thế ký 1:28 để thảo luận).
NGHIÊN CỨU #2 (1:26) Con người
— Sự sáng tạo — Linh hồn: Đức Chúa Trời dựng nên con người theo ảnh tượng của Ba
Ngôi Đức Chúa Trời. Hãy chú ý kỹ những gì Kinh thánh chép:
"Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên
loài người như hình ta và theo tượng ta" (Sáng thế ký 1:26).
"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài;
Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời" (Sáng thế ký
1:27).
Nói con người được dựng
nên theo "ảnh tượng của Đức Chúa Trời" thì có nghĩa gì? Nói như thế có nghĩa là phân
biệt con người với mọi sự sống khác. Không có chỗ nào Đức Chúa Trời phán Ngài
dựng nên một hữu thể theo "ảnh Ngài, theo tượng Ngài" cả. Chỉ có con người mới được dựng nên theo "ảnh
Ngài, tượng Ngài" mà thôi (Xem chú thích — Sáng thế ký 5:1-2 để thảo luận).
1. Không chắc nói
như thế có nghĩa là nói tới linh hồn của con người đâu. Kinh
thánh chép rằng mọi tạo vật sống đều là linh hồn. Chúng được dựng nên là linh hồn
sống. Mọi tạo vật sống đều có
hơi thở, lương tâm, và sinh khí. (Xem Nghiên
Cứu #1, Linh hồn — Sáng thế ký 1:20 để thảo luận).
2. Không chắc nói
như thế là muốn nói tới khả năng lý luận. Rõ ràng, loài động vật đều có khả
năng lý luận và thậm chí học tập tới các cấp độ khác nhau. Loài động vật tỏ ra
khả năng suy nghĩ khi đối diện với các nan đề hay kẻ thù, hoặc nếm trải vô số
kinh nghiệm trong cuộc sống.
3. Không chắc nói
như thế là muốn nói tới khả năng sống đạo đức và công bình. Loài động vật — đặc
biệt một số loài, cả cá nhân và trong các nhóm gia đình — đều có phép tắc và
hành động dẫn tới cách xử sự đạo đức giữa vòng chúng và thậm chí đối với các
loài khác nữa. Dường như là có một số hành vi đúng sai giữa vòng các loài động
vật nầy.
Tuy nhiên, điều nầy cần
được chỉ ra: con người thì siêu việt hơn các loài động vật cả về trí khôn lẫn
đạo đức. Con người thì siêu việt hơn cả hai: hữu thể có lý trí (hữu thể biết lý luận) và hữu thể đạo
đức (hữu thể sống trong sự công bằng, có
quan hệ với các loài khác một khi nó có thể). (Hãy chú ý hữu thể được làm mới lại về mặt thuộc linh và về mặt lý trí
trong Đấng Christ đang tác động khả năng lý luận và đạo đức của con người. Con
người có thể được dựng nên trong sự công nghĩa và trong sự thánh khiết thật — được giải phóng ra khỏi vòng nô lệ hợp pháp
do sự công bình và thánh khiết mà con người lập nên, khỏi tôn giáo do con người
lập nên đầy những nghi thức và phép tắc [Êphêsô 4:24; Côlôse 3:10]).
Vậy thì, Đức Chúa Trời
muốn nói gì khi Ngài phán rằng con người được dựng nên theo "ảnh
tượng của Đức Chúa Trời"?
Ít nhất, Kinh thánh muốn nói tới 5 việc:
1. Đức Chúa Trời là
trọn vẹn, vì vậy Ngài dựng nên con người giống như chính mình Ngài, là trọn
vẹn. Tất nhiên, điều nầy đề cập tới sự sáng tạo nguyên thủy về con
người. Khi Đức Chúa Trời lần đầu tiên dựng nên con người, con người được dựng
nên giống như Đức Chúa Trời, được dựng nên trong sự trọn vẹn, được dựng nên
không tì vít hay bất cứ một khuyết điểm nào. Con người có một thân thể và trí
khôn hoàn hảo, sức khỏe và sự thông minh trọn vẹn. Con người chẳng biết tới tật
bịnh, đau ốm, hay tai họa; và con người có khả năng tiếp thu. Con người chẳng
kinh qua đau khổ hay khó khăn. Con người chẳng có ý thức gì về sự ganh ghét,
chẳng biết trống vắng là gì, hay tình trạng cô đơn. Con người không hề đổ nước
mắt vì buồn rầu, khổ sở. Và trên hết mọi sự, con người thoải mái chẳng có tội
lỗi hay sự hư nát chi hết, thoải mái sống cho đến đời đời và không bao giờ chết
mất. Con người được dựng nên thật trọn vẹn, theo chính "ảnh
tượng" của sự trọn lành
Đức Chúa Trời.
"Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các
ngươi ở trên trời là trọn vẹn" (Mathiơ 5:48).
"bởi sự ngu muội ở trong họ, và vì lòng họ cứng
cỏi nên trí khôn tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời" (Êphêsô 4:18).
"Ấy là Ngài mà chúng tôi rao giảng, lấy mọi sự
khôn ngoan răn bảo mọi người, dạy dỗ mọi người, hầu cho bày tỏ mọi người trở
nên trọn vẹn trong Đấng Christ ra trước mặt Đức Chúa Trời" (Côlôse 1:28).
2. Đức Chúa Trời là
sự sáng, đầy dẫy sự vinh hiển, rực rỡ, và sáng láng. Vì thế, Đức Chúa Trời dựng
nên con người rồi mặc cho họ với sự vinh hiển sáng láng của Ngài (xem chú thích 1, phần 2 — Sáng thế ký 3:7; chú thích — Sáng thế ký 3:21).
"Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi
Ngài và truyền lại cho anh em rằng Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng
có sự tối tăm đâu" (I Giăng 1:5).
"Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng khác nào bằng cái
áo" (Thi thiên 104:2).
3. Đức Chúa Trời là
thánh: vô tội, công bình, thanh sạch, và đạo đức. Vì thế Đức Chúa Trời đã dựng
nên con người thánh khiết, vô tội, công bình, thanh sạch và đạo đức. Đức Chúa
Trời đã dựng nên con người rất phân biệt — biệt riêng ra đối với mọi loài thọ
tạo khác — trong cuộc sống và trong cách ứng xử, để sống một đời sống tin kính.
"bởi có chép rằng: Hãy nên thánh, vì ta là thánh" (I Phierơ 1:16,
đối chiếu Lêvi
11:45).
"Hãy cầu sự bình an với mọi người, cùng tìm theo
sự nên thánh, vì nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Đức Chúa Trời" (Hêbơrơ 12:14).
"Vì mọi vật đó phải tiêu tán thì anh em đáng nên
thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là dường nào" (II Phierơ 3:11).
4. Đức Chúa Trời là
tình yêu thương: tin kính, trung thành, yêu thương, thương xót, giàu ơn, và rất
tình cảm. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã dựng nên con người là một tạo vật biết yêu
thương, tin kính, trung thành, thương xót, giàu ơn và rất tình cảm.
"Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn
nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa
Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì
Đức Chúa Trời là sự yêu thương" (I Giăng 4:7-8).
"Chúng ta đã biết và tin sự yêu thương của Đức
Chúa Trời đối với chúng ta. Đức Chúa Trời tức là sự yêu thương, ai ở trong sự
yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy" (I Giăng 4:16).
5. Đức Chúa Trời là
Thần, là Linh đời đời; Đức Chúa Trời là sự sống, sự sống đời đời; Đức Chúa Trời
là Thân Vị duy nhứt đã sống cho đến đời đời, Ngài không hề có khởi đầu và sẽ
chẳng có kết cuộc. Vì lẽ đó...
+ Đức Chúa Trời đã dựng nên con người và đã
ban cho người một tâm linh, một hơi thở bất tử, một sự sống, sống cho đến đời
đời giống như Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời vượt trỗi
cao hơn những gì Ngài đã dựng nên khi Ngài dựng nên các loài động vật như linh
hồn sống rồi ban cho chúng một cuộc sống đời nầy và một hơi thở tạm thời. Đức
Chúa Trời dựng nên con người là một linh giống như chính mình Ngài, giống
như chính sự sống của Ngài vậy. Rõ ràng, không một loài vật nào là một linh; loài động
vật chỉ là hồn mà thôi. Là hồn sống, chúng có khả năng theo cấp độ khác nhau
khi thở, khi lý luận, và khi quan hệ. Nhưng không loài nào trong số chúng có
quyền thở cho đến đời đời được, chúng cũng không sinh hoạt và không có khả năng
lý luận như Đức Chúa Trời cũng không quan hệ với Đức Chúa Trời. Nhưng con người
có quyền đó, sinh hoạt và khả năng. Con người là linh, giống như Đức Chúa Trời
là Thần vậy. Con người không những chỉ có thân và hồn giống như các loài động
vật trong sự sáng tạo. Con người không những là một linh hồn sống có hơi thở
trên đất nầy. Con người là linh, một hữu thể bất tử.
Theo ánh sáng của mọi sự
nầy, có ít nhất hai dấu hiệu phân biệt nói tới hình ảnh của Đức Chúa Trời trong
con người, hai dấu hiệu phân biệt là một linh nơi con người.
a. Hình ảnh của Đức Chúa Trời bên trong con
người là quyền bất tử.
Con người sống trên địa cầu nầy, sống cho đến đời đời giống như Đức Chúa Trời.
Như đã nói ở trên, theo Kinh thánh, không một loài động vật nào là linh cả;
loài động vật chỉ là hồn mà thôi. Là hồn, chúng có khả năng hít thở, nghĩa là,
để sống. Song không một loài nào trong số chúng có quyền thở cho đến đời đời.
Nhưng con người có quyền đó. Con người là linh, giống như Đức Chúa Trời là Thần
vậy. Con người không những là linh hồn sống có hơi thở giống
như các loài động vật đã được dựng nên trên đất nầy, con người là linh, một hữu
thể bất tử được dựng nên cho cả hai: địa cầu nầy và cho cõi đời đời.
"Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức
là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến" (Giăng 17:3).
b. Hình ảnh của Đức Chúa Trời bên trong con
người là cả hai: sinh hoạt và khả năng (lựa chọn) thờ phượng. Con người không những có khả năng lý luận và quan hệ,
song họ còn có...
+ một sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh không thể dập tắt được để lý luận với Đức Chúa
Trời.
+ một sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh không thể dập tắt được khi quan hệ với Đức Chúa
Trời.
Một lần nữa, như đã nói ở trên, không một loài động vật nào
thuộc đời nầy có sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh nầy. Kinh thánh gán cho
hồn nhiều khả năng khác nhau, nhưng không một (linh) hồn động vật nào có sự
sinh hoạt và khả năng để lý luận với Đức Chúa Trời, chúng cũng
không có quan hệ gì với Đức Chúa Trời. Thờ phượng là sự sinh hoạt và khả năng thuộc linh, một
khả năng chỉ có ở linh, chỉ có nơi con người mà thôi. Giống như các loài động
vật, con người biết và hiểu rõ mọi sự thuộc về
đời nầy; nhưng con người cần phải nhìn biết, tin theo, và hiểu rõ Đức Chúa Trời trước tiên và trên hết (Êsai 43:10). Con người cần phải thờ lạy Đức
Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Thần, và con người, họ được dựng nên là linh, cần
phải thờ lạy Đức Chúa Trời bằng tâm thần và lẽ thật.
"Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì
phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy" (Giăng 4:24).
"Đức Giê-hô-va phán: Các ngươi là kẻ làm chứng ta,
và là đầy tớ ta đã chọn, hầu cho các ngươi được biết và tin ta, và hiểu
rằng ta là Chúa! Chẳng có Đức Chúa Trời nào tạo thành trước ta, và cũng chẳng
có sau ta nữa" (Êsai 43:10).
Có hai sự kiện quan trọng
cần phải lưu ý về hình ảnh của Đức Chúa Trời trong con người, về con người là
một hữu thể thuộc linh.
1. Sự loạn nghịch
của con người chống lại Đức Chúa Trời (sự
sa ngã của con người) đã tác động vào hình ảnh của Đức Chúa Trời trong con
người. Đức Chúa Trời đã dựng nên con người là một hữu thể bất tử. Là một hữu
thể bất tử trên đất, con người có hai quyền:
+ quyền sống trên đất nầy
+ quyền sống với Đức Chúa Trời cho đến đời
đời
Khi con người thực thi
khả năng và sự lựa chọn của mình và xây lại nghịch của Đức Chúa Trời, họ mất đi
cả hai quyền ấy. Con người không thể sống trên đất cho đến đời đời, họ cũng
không thể sống với Đức Chúa Trời cho đến đời đời được. Trong sự loạn nghịch của
họ chống lại Đức Chúa Trời, con người đang nói...
+ rằng họ ưa thích một thế giới khác hơn là
thế giới của Đức Chúa Trời.
+ rằng họ ưa thích một Thần khác (ý riêng của họ) hơn là chính mình Đức
Chúa Trời.
Con người nhơn đó tự xét
đoán mình phải rời khỏi đất nầy (phải
chết, Sáng thế ký 2:17; Sáng thế ký 3:1f; Sáng thế ký 3:19) và phải bị xa cách đối với
Đức Chúa Trời cho đến đời đời (Giăng 3:18). Hãy chú ý, con người đã được
dựng nên rồi là một hữu thể bất tử. Vì thế, họ sẽ tiếp tục sống; họ sẽ tồn tại
cho đến đời đời, nhưng...
+ họ phải bị đặt ở một chỗ nào đó khác hơn
là đất nầy (họ đã chọn như vậy).
+ họ phải bị xa cách khỏi Đức Chúa Trời cho
đến đời đời.
Đây là sự lựa chọn của
con người (xem chú thích 3 — Sáng thế ký 2:16-17 và Nghiên Cứu #2 — Sáng thế ký 2:16-17). Hình ảnh của Đức
Chúa Trời — quyền bất tử, sự sinh hoạt và khả năng thờ lạy và sống với Đức Chúa
Trời — bị hư hỏng cho đến đời đời.
2. Hình ảnh của Đức
Chúa Trời trong con người có thể được làm cho mới lại.
a. Con người có thể được "sanh
lại" — được làm cho sống
động về mặt thuộc linh với Đức Chúa Trời, giống như họ đã sống động về mặt
thuộc linh vào lúc ban đầu — không bao giờ hư mất.
"Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả
thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được
nước Đức Chúa Trời .... Đức Chúa
Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ
nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời" (Giăng 3:3, 5).
"anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay
hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức
Chúa Trời" (I Phierơ 1:23).
"Ai tin Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, thì sanh
bởi Đức Chúa Trời; và ai yêu Đức Chúa Trời là Đấng đã sanh ra, thì cũng yêu kẻ
đã sanh ra bởi Ngài" (I Giăng 5:1).
b. Con người có thể dự phần vào bổn tánh
thiêng liêng của Đức Chúa Trời, "mặc
lấy người mới".
"và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng
nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật" (Êphêsô 4:24).
"mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới
theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn” (Côlôse 3:10).
"và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời
hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư
nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản tánh Đức Chúa
Trời" (II Phierơ 1:4).
c. Con người có thể được làm nên mới, được
tái sanh, hay tái tạo trong Đức Chúa Jêsus Christ.
"Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người
dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới" (II Côrinhtô 5:17).
"Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội
lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên
sự công bình của Đức Chúa Trời" (II Côrinhtô 5:21).
"Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài
trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công
bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bịnh" (I Phierơ 2:24).
"không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm,
nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của
Đức Thánh Linh" (Tít 3:5).
d. Con người có thể dự phần bổn tánh thiêng
liêng của Đức Chúa Trời và biết chắc về sự sống đời đời trong trời mới đất mới.
"Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về
đất, thì chúng ta cũng sẽ mang ảnh tượng của người thuộc về trời" (I Côrinhtô 15:49).
"và bởi vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời
hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư
nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản tánh Đức Chúa
Trời" (II Phierơ 1:4).
"Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy
giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chết bị đốt mà tiêu
tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả. Vì mọi vật đó phải
tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là
dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày
các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi!
Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công
bình ăn ở" (II Phierơ 3:10-13).
"Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ
nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa" (Khải huyền 21:1).
Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời
phán: "Chúng ta hãy làm nên loài
người như hình ta và theo tượng ta" (Sáng thế ký 1:26). Bởi lời lẽ nầy,
Đức Chúa Trời đang tỏ ra
rằng con người là mão triều thiên vinh hiển nơi sự
sáng tạo của Ngài: là hữu thể
mặc lấy sự trang trọng và oai nghiêm trong tâm trí của Đức Chúa Trời, là hữu
thể được tôn cao trên mọi loài khác, là hữu thể được dự trù làm chủ và quản trị
mọi loài thọ tạo của Đức Chúa Trời và được ban cho quyền lực để lo liệu công
việc ấy.
Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời
giữ con người gần bên tấm lòng của Ngài. Đức Chúa Trời hoạch định và dựng nên
con người với sự quan phòng và ân điển rất đặc biệt: theo ảnh của chính Ngài,
theo tượng của chính Ngài. Con người là đỉnh cao trong sự sáng tạo của Đức Chúa
Trời.
2. (1:27) Con người
— Sự sáng tạo:
Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mới dựng nên con người, cả hai: nam
và nữ, dựng nên họ với sự trang trọng và oai nghi cao nhất, theo ảnh tượng của
Ngài. Tại sao sự sáng tạo con người của Đức Chúa Trời được nhắc đi nhắc lại
hoài vậy? Tại sao Kinh thánh lại công bố rằng Đức Chúa Trời dựng nên con người
theo chính ảnh tượng của Ngài? Hãy chú ý cho kỹ những gì câu Kinh thánh ấy nói:
"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài;
Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam
cùng người nữ" (Sáng thế ký 1:27).
Có ba lý do cho thấy tại
sao sự dựng nên con người của Đức Chúa Trời cần phải được tái nhấn mạnh.
1. Có một nhu cầu
phải nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mới dựng nên
con người. Sự sống của con người không những đã bước vào hiện thực. Chất liệu
cơ bản của sự sống con người ra từ chỗ không không — không phải các tế bào của con người, không phải ADN, các
nguyên tử, hay phân tử của con người. Bất cứ yếu tố cơ bản nào của sự sống con
người là gì đi nữa — bất cứ người nào khám phá ra chất liệu cơ bản của sự sống
có là gì đi nữa, bất cứ vật chất hay năng lực thô nào của sự sống có là gì đi
nữa — chất liệu cơ bản không những bắt đầu hình thành và nắn đúc sự sống. Sự
sống con người không xảy ra...
+ bởi cơ hội.
+ bởi sự bừa bãi.
+ bởi một lực lượng hay năng lực khách quan
nào kết các tế bào cơ bản và AND lại với nhau để hình thành sự sống con người.
+ bởi một số luật lệ vật lý đã tồn tại sẵn
và chỉ khởi sự hình thành sự sống con người.
Sự sống con người được
dựng nên bởi Đức Chúa Trời và chỉ bởi một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Bất luận
chất liệu cơ bản nào dựng nên sự sống con người, bất kỳ lực lượng thô và luật
lệ nào tạo ra sự sống con người, hết thảy chúng đều được dựng nên và đưa vào
vận hành bởi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà
thôi, bởi quyền phép của Lời toàn năng của Ngài, đã dựng nên sự sống con người.
Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời mà thôi đã truyền cho sự sống con
người bước vào hiện thực.
Tư tưởng 1. Một mình Đức
Chúa Trời đã dựng nên con người. Con người không nên chối bỏ Đức Chúa Trời; con
người không nên chễnh mãng và bất chấp Đức Chúa Trời. Làm như thế sẽ dẫn tới sự
chối bỏ bởi Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của con người. Con
người là loài thọ tạo. Loài thọ tạo không nên nổi loạn chống nghịch Đấng Tạo
Hóa. Loạn nghịch như thế chỉ dẫn tới sự phán xét mà thôi. Vì vậy, con người
phải công nhận Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của mình. Con người phải phục vụ
và thờ lạy Đức Chúa Trời trong vai trò Đấng Tạo Hóa, là Nguồn Cội và là Đấng
Ban Sự Sống, là Chúa Tể và là Chủ Tể của vũ trụ.
"mà lại quên Đức Giê-hô-va, Đấng tạo ngươi, đã
giương các từng trời và lập nền đất, và trọn ngày cứ run sợ về cơn giận của kẻ
ức hiếp khi nó toan hủy diệt ngươi? Vậy thì bây giờ chớ nào cơn giận của kẻ ức
hiếp ấy ở đâu?" (Êsai 51:13).
"Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một cha
sao? Chẳng phải chỉ có một Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta sao?" (Malachi 2:10).
"Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính
Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài,
là bầy chiên của đồng cỏ Ngài. Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài, Hãy ngợi khen mà
vào hành lang Ngài. Khá cảm tạ Ngài, chúc tụng danh của Ngài. Vì Đức Giê-hô-va
là thiện; sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi, Và sự thành tín Ngài còn đến đời đời" (Thi thiên 100:3-5).
Tư tưởng 2. Loài thọ tạo
nên luôn phục vụ Đấng Tạo Hóa của mình. Đấng Tạo Hóa là Đấng rất chu đáo đến
nỗi Ngài ban cho loài thọ tạo một ý chí tự do đáng để được thờ lạy và được phục
vụ cho đến đời đời. Đấng Tạo Hóa là Đấng yêu thương nhiều đến nỗi Ngài ban cho
loài thọ tạo khả năng yêu thương xứng đáng được kính mến và được tôn vinh. Đức
Chúa Trời nầy đã làm như thế. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta cả hai: ý chí
tự do và khả năng yêu thương cách tự do; vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đáng được thờ
lạy và phục vụ cho đến đời đời. Đức Chúa Trời đáng được kính mến và tôn vinh
bởi hết thảy chúng ta.
2. Có một nhu cầu
phải nhấn mạnh sự trang trọng và vinh quang của con người. Con người được dựng
nên theo chính ảnh tượng của Đức Chúa Trời. Con người là mão triều thiên và là
đỉnh cao sự sáng tạo của con người. Con người là tạo vật mà Đức Chúa Trời đã
ban Thánh Linh Ngài trên họ — chính hơi thở bất tử của Ngài, sự sống của Ngài
để sống cho đến đời đời. Vì lẽ đó, con người sống cho đến đời đời giống như Đức
Chúa Trời vậy. Con người không bao giờ thôi không tồn tại.
Tư tưởng 1. Đây là một
việc mà con người cần phải biết: con người đã được dựng nên theo ảnh tượng của
Đức Chúa Trời. Con người là một tạo vật bất tử: con người sẽ tồn tại cho đến
đời đời và mãi mãi. Vì vậy, con người phải biết chắc — tuyệt đối biết chắc —
rằng mình sẽ sống với Đức Chúa Trời. Việc duy nhứt con người không nên làm là
sống tẻ tách và xa cách đối với Đức Chúa Trời. Con người không nên bỏ sót đặc
ân vinh hiển của việc sống đời đời với Đức Chúa Trời.
"Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã
ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống
đời đời" (Giăng 3:16).
"Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không
chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời
vẫn ở trên người đó" (Giăng 3:36).
"Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu kẻ
nào giữ lời ta, sẽ chẳng thấy sự chết bao giờ" (Giăng 8:51).
"Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi
tin điều đó chăng?" (Giăng 11:26).
"Vả, chúng ta biết rằng nếu nhà tạm của chúng ta
dưới đất đổ nát, thì chúng ta lại có nhà đời đời tại trên trời, bởi Đức Chúa
Trời, không phải bởi tay người làm ra" (II Côrinhtô 5:1).
"Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời
đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự
sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống" (1 Giăng
5:11-12).
"và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần
linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó" (Truyền đạo
12:7).
Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời
đã ban cho con người chính Thánh Linh của Ngài, chính hơi sống của Ngài.
"Thần Đức Chúa Trời đã sáng tạo tôi, Hơi thở của
Đấng Toàn năng ban cho tôi sự sống" (Gióp 33:4).
Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời
đã ban sự trang trọng rất lớn cho con người. Đức Chúa Trời đã tôn con người lên
với sự vinh hiển và vinh dự.
"Chúa làm người kém Đức Chúa Trời một chút, Đội
cho người sự vinh hiển và sang trọng" (Thi thiên 8:5).
Tư tưởng 4. Hình ảnh của
Đức Chúa Trời hiện đặt trên con người chỉ là một cái bóng mà thôi. Giống như
hình ảnh trên con tem vậy. Hình ảnh không phải là nhân vật. Đó chỉ là hình ảnh
thôi, hình ảnh của một nhân vật mà thôi. Nhưng hãy chú ý: đó là một ảnh; đó là
một tượng.
Tại sao Đức Chúa Trời ban cho con người một ảnh
tượng về chính mình Ngài? Vì vậy, người ấy sẽ bước đi bởi đức tin và tự do
lựa chọn kính sợ và thờ phượng
Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho con người đủ về chính mình Ngài để
khiến cho con người biết khao khát và tìm kiếm Đức Chúa Trời. Con người chỉ có
đủ hình ảnh của Đức Chúa Trời để tự vận dụng tìm kiếm sự bất tử và sống cho đến
đời đời.
"Ở đó ngươi sẽ tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời
ngươi, và khi nào hết lòng hết ý tìm cầu Ngài thì mới gặp" (Phục truyền luật lệ ký
4:29).
"Hãy cầu Đức Giê-hô-va và quyền phép Ngài, Hãy tìm
kiếm mặt Ngài luôn luôn" (Thi thiên 105:4).
"Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp
được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần!" (Êsai 55:6).
"Đức Giê-hô-va phán cùng nhà Y-sơ-ra-ên như vầy:
Hãy tìm kiếm ta, thì các ngươi sẽ sống!"
(Amốt 5:4).
"Hỡi các ngươi là mọi kẻ nhu mì của đất, làm theo
mạng lịnh của Chúa, hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm
sự nhu mì, hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức
Giê-hô-va" (Sôphôni 2:3).
"hầu cho tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm
cho được, dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta" (Công Vụ các Sứ Đồ
17:27).
Tư tưởng 5. Đức Chúa
Jêsus Christ, một mình Ngài là ảnh tượng chính xác về Đức Chúa Trời (Hêbơrơ 1:3, đối chiếu Philíp 2:6-8).
3. Có một nhu cầu
cần phải nhấn mạnh Đức Chúa Trời đã dựng nên cả hai: người
nam và người nữ, theo chính ảnh
tượng của Ngài. Người nữ được dựng nên bởi Đức Chúa Trời cũng như người nam;
nàng được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời cũng y như người nam. Người
nữ được ban cho sự trang trọng và vinh quang cũng y như người nam. Người nữ là
mão triều thiên và là đỉnh cao của sự Đức Chúa Trời dựng nên loài người.
Tư tưởng 1. Loài người và
xã hội xuống cấp và bắt phụ nữ làm nô lệ là sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Phụ
nữ được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời; vì vậy, nữ giới cần phải
được xem trọng, tôn cao y như nam giới. Họ cần phải được công nhận hầu chu toàn
chức năng của họ trên đất với sự trang trọng và vinh dự y như nam giới có vậy.
Đức Chúa Trời đã dựng nên người nữ để ăn ở trong vai trò bạn đồng hành với
người nam, chớ không phải là nô lệ.
"Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài;
Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng
người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh
sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị
loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất" (Sáng thế ký 1:27-28).
"Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở
một mình thì không tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó" (Sáng thế ký 2:18).
"Một người nữ tài đức ai sẽ tìm được? Giá trị nàng
trổi hơn châu ngọc" (Châm ngôn 31:10).
"Hãy chào Bê-rít-sin và A-qui-la, kẻ cùng làm
việc với tôi trong Đức Chúa Jêsus Christ" (Rôma 16:3).
"Hãy chào Ma-ri, là người có nhiều công khó vì anh
em" (Rôma 16:6).
"Hãy chào Try-phe-nơ và Try-phô-sơ, là hai người
làm việc cho Chúa” (Rôma 16:12).
"[cho được ghi tên vào sổ đàn bà góa]...phải là người được tiếng khen vì việc phước đức
mình, như đã nuôi con cái, đãi đằng khách lạ, rửa chân thánh đồ, cứu giúp kẻ
khốn nạn, và làm đủ các việc phước đức” (I Timôthê 5:10).
Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời
dựng nên cả hai: người nam và người nữ. Mỗi người đều ra từ Đức Chúa Trời. Ngài
dựng nên người nầy cũng nhiều y như người kia. Mỗi người đều được dựng nên vì Đức Chúa Trời cũng như bởi Đức
Chúa Trời.
Người nầy cũng quan trọng đối với Đức Chúa Trời
y như người kia, đối với chương trình và mục đích của Ngài cho thế gian. Nới
khác đi, cả hai: người nam và người nữ đều được dựng nên vì Đức Chúa Trời cũng như bởi Đức
Chúa Trời; vì vậy mỗi người đều được dựng nên cho Đức Chúa
Trời. Mỗi người, cả nam và nữ, cần phải sống cho sự vinh
hiển của Đức Chúa Trời, phục vụ và thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, Chúa
Tể của mọi sự sống.
"Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng, Hãy hát
xướng mà đến trước mặt Ngài. Phải biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Chính
Ngài đã dựng nên chúng tôi, chúng tôi thuộc về Ngài; Chúng tôi là dân sự Ngài,
là bầy chiên của đồng cỏ Ngài" (Thi thiên 100:2-3).
3. (1:28) Con người, Mục đích — Hôn nhân — Đất — Sự sáng tạo — Các
loài động vật — Khoa học:
Đức Chúa Trời ban phước cho người nam và người nữ. Đây là hình ảnh lần gặp gỡ
của Đức Chúa Trời với người nam người nữ sau khi cả hai đã được dựng nên. Hãy
hình dung Ađam (người đầu tiên) đã
cảm nhận thế nào sau khi mình được dựng nên, khi thình lình mình đứng trên đất,
kinh nghiệm khoảnh khắc đầu tiên của cuộc đời. Ông ý thức về bản thân mình và
mọi sự ở chung quanh, vẻ đẹp và sự kết quả của đất, song mọi sự thật là kỳ lạ,
một sự bối rối hoàn toàn. Ông là ai chứ? Ông đang ở đâu vậy? Ông phải làm gì
đây? Hết thảy mọi thắc mắc nầy cần phải được giải đáp và giải đáp ngay sau khi
ông được dựng nên. Cũng một thể ấy với Êva (người
nữ đầu tiên).
Đây là hình ảnh những gì
đã xảy ra trong Sáng thế ký 1:28-30. Đức Chúa Trời đang gặp gỡ
mặt đối mặt với người nam và người nữ, ban phước cho họ và giải thích họ là ai
và lý do tại sao họ được dựng nên và lý do tại sao họ có mặt trên đất. Hãy lưu
ý, Đức Chúa Trời đã ban phước cho người nam và người nữ. Đâu là ơn phước? Đức
Chúa Trời chúc phước cho người nam người nữ với...
+ đặc ân về sự hiện diện của Đức Chúa Trời,
về mối tương giao với Đức Chúa Trời.
+ đặc ân về sự sống, cả hai: sự sống dự dật
và sự sống đời đời.
+ đặc ân về việc được dựng nên theo ảnh
tượng của Đức Chúa Trời, về việc là mão triều thiên và là đỉnh cao trong sự
sáng tạo của Ngài.
+ đặc ân về việc sống trên đất với mọi sự
tiếp trợ về đồ ăn và vẻ đẹp của nó.
+ đặc ân là người nam và người nữ, về việc
có một tình bạn với nhau.
+ đặc ân về sự sanh sản, về việc làm đầy
dẫy đất với dòng giống của họ.
+ đặc ân về việc các loài thú đồng là bạn
bè trên đất.
+ đặc ân về việc cai trị và quản trị mọi
tạo vật của đất.
+ đặc ân về việc làm, về việc tìm thấy sự
thỏa lòng và sự phu phỉ trong việc bắt phục đất — qua nghiên cứu, khám phá,
phát triển.
Tư tưởng 1. Lưu ý:
các ơn phước và những đặc ân được ban cho từng người nam và người nữ. Nhưng
từng người đều có quyền xưng nhận các đặc ân, được sử dụng vì ích cho bản thân
và cho xã hội — mọi sự trong sự vâng phục Đức Chúa Trời.
Tư tưởng 2. Hãy chú ý ơn
phước của Đức Chúa Trời là cá nhân:
"Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán cùng họ" (Sáng thế ký 1:28). Đức Chúa Trời phán với
người nam người nữ theo cách riêng, mặt đối mặt. Được Đức Chúa Trời ban phước
có nghĩa là Đức Chúa Trời...
+ giữ gìn chúng ta
+ chiếu sáng mặt Ngài trên chúng ta
+ giàu ơn đối với chúng ta
+ nâng đỡ chúng ta
+ và ban cho chúng ta sự bình an
"Cầu xin Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi và phù
hộ ngươi! Cầu xin Đức Giê-hô-va chiếu sáng mặt Ngài trên ngươi, và làm ơn cho
ngươi! Cầu xin Đức Giê-hô-va đoái xem ngươi và ban bình an cho ngươi!" (Dân số ký 6:24-26).
4. (1:28) Con người,
Mục đích — Hôn nhân — Đất — Sự sáng tạo — Các loài thú đồng — Khoa học: Đức Chúa Trời ban cho người nam người nữ ba
phần hành hay mục đích quan trọng.
1. Thứ nhứt, người
nam và người nữ cần phải sanh sản và làm đầy dẫy đất. Đây là một phần hành tuyệt
vời nhất. Người nam và người nữ cần phải thiết lập mối quan hệ gần gũi nhất —
một mối quan hệ về tình yêu thương, sự quan phòng, tin cậy, và lòng trung thành
với nhau. Họ cần phải ăn ở, làm việc, và thờ phượng tay trong tay khi họ hành
trình qua cuộc sống với nhau. Mối quan hệ họ xây dựng để phục vụ là cơ sở CHO
mọi mối quan hệ khác trên đất và trong vòng xã hội và các nước trên đất. Tất cả
các nhóm ở trên đất — dù là xã hội hay các nước — cần phải ăn ở với nhau trong
tình yêu thương, sự quan phòng, tin cậy, và lòng trung thành.
Lưu ý: Đức Chúa Trời đã dựng nên nhiều loài thú đồng,
nhưng Ngài chỉ dựng nên một người nam và một người nữ. Tại sao chứ? Có ít nhất
bốn lý do.
+ Để thiết lập gia đình: lập ra luật lệ,
nguyên tắc một nam một nữ sống chung với nhau. Sẽ chẳng có phân cách hay ly dị
— không có gia đình phân tán, không có đứa trẻ nào không cha hay không mẹ — khi
Đức Chúa Trời lần đầu tiên dựng nên người nam và người nữ.
+ Để xây dựng tình yêu thương, sự tin cậy,
và lòng trung thành trong vòng người nam người nữ được mạnh mẽ hơn. Tình yêu
thương, sự tin cậy và lòng trung thành suy yếu đi và bị hủy diệt khi các mối
quan hệ mật thiết được tải đi với những người khác. Khi tình yêu thương, sự tin
cậy và lòng trung thành suy yếu đi trong sự ràng buộc mạnh mẽ nhất đối với
người nam, trong gia đình, chúng bị suy yếu trong mọi mối quan hệ khác của cuộc
sống: tại sở làm, lúc vui đùa, với xứ sở của một người.
+ Để dạy cho con người biết rằng mọi dân
tộc đều chung một huyết thống, ra từ một nguồn. Vì lẽ đó, mọi dân tộc — mọi
dòng giống và các dân tộc — cần phải sống trong hòa bình và hiệp một, cùng làm
việc với nhau để bắt phục đất. Không nên có thành kiến, phân biệt, bạo lực,
tham lam, ích kỷ, hay chiến tranh trên đất — không nên khi Đức Chúa Trời trước
tiên dựng nên con người.
+ Để dạy cho con người biết rằng người nam
quan trọng như người nữ, cũng như người nữ quan trọng như người nam, mọi thế hệ
nối tiếp của người nam người nữ phải được đánh giá cao giống như người nam và
người nữ đầu tiên ở đây. Sẽ chẳng có một sự lạm dụng, hay bắt người nam hoặc
người nữ làm nô lệ trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Cả hai đều có quan hệ
với sứ mệnh của Đức Chúa Trời cho địa cầu.
"Ngài trả lời rằng: Các ngươi há chưa đọc lời chép
về Đấng Tạo Hóa, hồi ban đầu, dựng nên một người nam, một người nữ, và có phán rằng: Vì cớ đó người nam sẽ lìa
cha mẹ, mà dính díu với vợ mình; hai người sẽ cùng nên một thịt hay sao? Thế
thì, vợ chồng không phải là hai nữa, nhưng một thịt mà thôi. Vậy, loài người
không nên phân rẽ những kẻ mà Đức Chúa Trời đã phối hiệp!" (Mathiơ 19:4-6).
Tư tưởng 1. Hãy chú ý,
con người đã đi bao xa rồi, họ đã sa ngã là dường nào, ra khỏi những phần hành
nguyên thủy của Đức Chúa Trời. Hãy chú ý tất cả sự...
+ thành kiến
+ phân biệt đối xử
+ dân số quá tải
+ bạo lực
+ thù hận
+ chiến tranh
+ ích kỷ
+ tham lam
+ tình trạng nô lệ
+ ngược đãi vợ & con & chồng
+ lạm dụng chức vụ lãnh đạo
+ lạm dụng nhà cầm quyền
2. Thứ hai, người
nam và người nữ cần phải bắt phục đất.
(Xem Nghiên Cứu #3 — Sáng thế ký
1:28 để thảo luận).
3. Thứ ba, người nam
và người nữ cần phải quản trị các loài động vật. Quản trị có nghĩa là cai trị,
làm chủ, điều khiển, quản lý, giám sát và chăm sóc. Lúc nguyên thủy, khi Đức
Chúa Trời đầu tiên dựng nên các loài động vật và con người, chắc chắn chẳng có
tình trạng bạo lực giữa vòng các loài động vật. Con người hay động vật cũng
không ăn thịt các loài động vật khác (Sáng thế ký 1:30, đối chiếu Sáng thế ký 9:3). Con người và động vật sống bên cạnh
nhau trong hòa bình và rõ ràng với tình cảm dành cho nhau nữa — ít nhất giữa
vòng đẳng cấp cao của động vật. Nhưng con người là nhân vật cai trị, lực lượng
thống trị, cấp lãnh đạo giữa vòng mọi tạo vật của địa cầu.
Nhưng hãy chú ý điều chi
đã xảy ra từ khi con người sa ngã và thế gian rơi vào chỗ đồi bại. Các loài
động vật sống trong một thế giới tàn bạo, phải phấn đấu mới có đồ ăn và đánh
nhau để sống còn nghịch lại các loài động vật khác. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời
hứa một kỷ nguyên mới và một thời đại mới, một đất mới và một thế giới mới, khi
sự trọn lành và bình an sẽ trị vì trên đất. Chiên con sẽ nằm cạnh sư tử. Một
địa cầu được cải sửa lại, một trời mới đất mới, sẽ xảy đến.
"Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với
dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ
sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử
ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đang bú sẽ chơi kề ổ rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ
thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh
của ta; vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Đức Giê-hô-va, như các dòng nước
che lấp biển" (Êsai 11:6-9).
"Muông sói với chiên con sẽ ăn chung, sư tử ăn rơm
như bò, rắn ăn bụi đất. Sẽ chẳng có ai làm tổn hại hay là hủy phá trong khắp
núi thánh ta, Đức Giê-hô-va đã phán vậy" (Êsai 65:25).
"Trong ngày đó, ta sẽ vì chúng nó lập ước cùng
những thú đồng, những chim trời, và côn trùng trên đất. Ta sẽ bẻ gãy và làm cho
biến mất khỏi đất nầy những cung, những gươm, và giặc giã; và sẽ khiến dân sự
được nằm yên ổn" (Ôsê 2:18).
"Ngài sẽ làm sự phán xét trong các nước, đoán định
về nhiều dân. Bấy giờ họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước
nầy chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự
chiến tranh" (Êsai 2:4).
"Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi
không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững,
và lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng
sốt sắng của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ làm nên sự ấy!" (Êsai 9:6).
"Ai nấy sẽ ngồi dưới cây nho mình và dưới cây vả
mình, không ai làm cho lo sợ; vì miệng Đức Giê-hô-va vạn quân đã phán" (Michê 4:4).
NGHIÊN
CỨU #3 (1:28)
Con người, Mục đích — Đất — Sự
sáng tạo — Khoa học: Đức Chúa Trời truyền cho con người phải bắt phục đất.
Sáng thế ký 1:28 chép: "hãy quản trị … trên mặt đất". Đây là sự phân công rất quan trọng. Hãy chú ý
bốn sự kiện quan trọng.
1. Bắt phục và quản
trị trên mặt đất có nghĩa là...
+ cai trị và làm chủ địa cầu.
+ giám sát và chăm sóc địa cầu.
+ đầu tư, nghiên cứu, và khám phá mọi tài
nguyên của địa cầu.
+ phát triển và sử dụng mọi tài nguyên của địa
cầu.
+ quản lý địa cầu với mọi tài nguyên của
nó.
2. Đức Chúa Trời ban
địa cầu cho cả hai: người nam và người nữ, đặt địa cầu dưới sự quan phòng của
họ. Địa cầu là...
+ cả hai: quà tặng và bổn phận.
+ cả hai: cơ nghiệp và trách nhiệm..
+ cả hai: tài sản và nghĩa vụ.
+ cả hai: tín nhiệm và công việc.
Địa cầu ở dưới sự quan
phòng của người nam và người nữ. Đức Chúa Trời ban địa cầu cho họ như món quà
tặng, như một cơ nghiệp, như một sự tín nhiệm. Địa cầu giờ đây là tài sản của
họ, quê hương và cơ nghiệp của họ. Nhưng địa cầu cũng là trách nhiệm của họ
nữa. Đây là phần việc của người nam và người nữ — bổn phận và nghĩa vụ của
họ — giám sát địa cầu. Đức Chúa Trời đã
đặt họ quản trị đất, quản trị tạo vật của Ngài. Vì vậy, quản trị địa cầu cho
Đức Chúa Trời là bổn phận của họ.
Tư tưởng 1. Môi trường là
vấn đề đối với Đức Chúa Trời; vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã đặt con người nắm
quyền quản trị — giám sát — môi trường. Môi trường phải là vấn đề đối với con
người. Con người không được làm ô nhiễm không khí và nước; họ không được làm ô
nhiễm và hủy diệt đất cũng như các từng trời bên trên.
3. Đức Chúa Trời làm
thỏa mãn hai trong số các nhu cần cơ bản nhất của con người trong phần hành
nầy. Con người có các nhu cần cơ bản...
+ phải được yêu thương và thách thức.
+ yêu thương và phó sự sống mình cho một
mục đích quan trọng.
Sự tiếp trợ của Đức Chúa
Trời trên địa cầu làm thỏa mãn mọi nhu cần của con người. Khi một người thực sự
nhìn biết Đức Chúa Trời đã ban cho mình địa cầu làm cơ nghiệp, người ấy nhìn
biết Đức Chúa Trời vốn yêu thương mình. Người ấy biết rõ Đức Chúa Trời giám sát
mình với sự quan phòng và tình yêu thương sâu sắc nhất. Đáp lại, con người phải
kính sợ Đức Chúa Trời. Sự Đức Chúa Trời ban địa cầu cho sẽ khuấy đảo con người
đáp ứng lại với Đức Chúa Trời, kính mến Đức Chúa Trời y như Đức Chúa Trời đã
yêu thương người vậy.
Sự phân công của Đức Chúa
Trời khi bắt phục đất làm thỏa mãn nhu cần của con người đối với một mục đích
quan trọng. Khi một người thực sự nhìn biết Đức Chúa Trời đã ban địa cầu cho để
giám sát và quản trị, người ấy bị thách thức với mục đích quan trọng nhất trong
các mục đích. Người bị thách thức phải phó mạng sống mình để siêng năng lao
động rồi thực thi mọi đóng góp mà người có thể để phát triển đất cùng mọi xã
hội của nó. Người bị thách thức phải yêu thương địa cầu và người nào cùng làm
việc với người trong việc quan phòng đến đất. Người bị thách thức phải phó mình
cho mục đích cao cả mà vì đó Đức Chúa Trời đặt người trên đất: bắt phục và quản
trị đất thay cho Đức Chúa Trời.
Lưu ý: khi một người siêng năng lao động trong công
việc của mình, siêng năng lao động để làm mọi sự người có thể để khiến đất
thành ra một chỗ tốt hơn, người ấy ý thức được mục đích quan trọng, sự phu
phỉ, và sự thỏa mãn. Ba
việc lớn lao nầy — ý thức mục đích,
phu phỉ và thỏa mãn — đều đến từ...
+ việc nhìn biết Đức Chúa Trời theo cách
riêng.
+ việc nhìn biết lý do tại sao Đức Chúa Trời đã
đặt chúng ta trên đất.
+ việc phó mạng sống mình cho Đức Chúa Trời
và vì mục đích cao cả của Ngài cho con người: để bắt phục và phát triển đất đến
chỗ đầy dẫy nhất của nó.
4. Khả năng của con
người khi bắt phục đất đã bị hư hỏng và suy yếu đi — thực là vậy. Hãy chú ý ba
sự kiện quan trọng:
a. Mục đích nguyên thủy của Đức Chúa Trời,
khi trước tiên Ngài dựng nên con người, là đây: con người phải có một đời sống
trọn vẹn, sống trong môi trường trọn vẹn. Người phải sống chỗ không tưởng nổi.
Con người cần phải ở trong mối tương giao trọn vẹn với Đức Chúa Trời, từng trải
mục đích và sự phu phỉ trong việc bắt phục đất. Con người cần phải sống sao cho
hạnh phúc thật trọn vẹn — thỏa lòng thật trọn vẹn — khi người lo liệu công việc
mình làm phát triển và quản trị đất. Con người cần phải vận dụng nghiên cứu
khoa học và kỷ thuật sẵn có; con người cần phải đầu tư, khám phá, và phát triển
mọi tài nguyên của đất. Con người cần phải học biết về thế giới của mình và
kiếm được tri thức có cần để làm cho quá trình kia ra thực. Rõ ràng, người có
một tâm trí phải trọn vẹn với khả năng học hỏi, và người chỉ thần phục đối với
Đức Chúa Trời mà thôi (Sáng thế ký 2:15-17).
b. Chính tội lỗi đã làm suy yếu và hư hỏng
quyền tể trị và khả năng bắt phục đất của con người. Khi con người sa vào trong
tội lỗi, địa cầu, thậm chí chính mình con người nữa, đang ở trong cơn thạnh nộ
của bạo lực và đau khổ...
+ Thiên nhiên chịu hết tai vạ thiên nhiên
nầy đến tai vạ thiên nhiên khác: bão táp, cuồng phong, lốc xoáy, giông tố, lụt
lội, núi lửa phun trào, động đất, sấm chớp nguy hiểm, giông bão bạo lực, dịch
lệ cào cào, đói kém, và còn nhiều thứ nữa. Thiên nhiên thường xuyên gánh chịu.
+ Con người gánh chịu với hết hành động bạo
lực nầy đến hành động bạo lực khác: làm dụng trẻ em, ngược đãi vợ, ngược đãi
chồng, cưỡng hiếp, tấn công, cắt xén, giết người, chiến tranh, cướp bóc, lừa
đảo, trộm cắp, nói dối, tàn sát, hành động khủng bố, đốt phá, và còn nhiều thứ
nữa.
+ Địa cầu đầy dẫy bịnh tật, dịch lệ và tai
họa — mọi sự gây ra đau khổ và hủy diệt sự sống, nhiều mảng đất và các tài nguyên
của nó.
Mục tiêu là đây: địa cầu — bản chất của nó —
không còn chịu sự quản trị của con người nữa. Nó thường ở dưới quyền quản trị
khi lần đầu tiên Đức Chúa Trời dựng nên con người. Nhưng không phải bây giờ,
không phải kể từ khi con người loạn nghịch chống lại Đức Chúa Trời, không phải
kể từ khi sự sa ngã kinh khủng của con người rơi vào tội lỗi. Tội lỗi đã làm hư
hỏng và suy yếu sự cai trị của con người trên đất.
c. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa phục hồi
quyền cai trị của con người trên đất, thực vậy, trên toàn vũ trụ. Bằng cách
nào? Qua Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Jêsus Christ đã bảo đảm quyền cai trị
và sự trị vì trên đất. Ngài sẽ trở lại với địa cầu, thiết lập chính phủ của
Ngài, rồi phục hồi con người đến địa vị nguyên thủy của họ về quyền quản trị và
chủ tể — cùng với chính mình Ngài.
"Chúa đáp rằng: Ai là người quản gia ngay thật
khôn ngoan, chủ nhà đặt coi cả người nhà mình, để đến dịp tiện, phát lương phạn
cho họ? Phước cho đầy tớ ấy khi chủ nhà về, thấy làm như vậy! Quả thật, ta nói
cùng các ngươi, chủ sẽ cho nó quản lý cả gia tài mình" (Luca
12:42-44).
"Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta
rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng
là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn
chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài" (Rôma 8:16-17).
"Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không, chẳng
phải tự ý mình, bèn là bởi cớ Đấng bắt phục. Muôn vật mong rằng mình cũng sẽ
được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát, đặng dự phần trong sự tự do vinh hiển của
con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng muôn vật đều than thở và chịu khó
nhọc cho đến ngày nay; không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái
đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi trông đợi sự làm
con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy" (Rôma
8:20-23).
"Anh em há chẳng biết các thánh đồ sẽ xét đoán thế
gian sao? Ví bằng thế gian sẽ bị anh em xét đoán, thì anh em há chẳng đáng xét
đoán việc nhỏ mọn hơn sao? Anh em chẳng biết chúng ta sẽ xét đoán các thiên sứ
sao? Huống chi việc đời nầy!" (I Côrinhtô 6:2-3).
"lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng
Ngài đồng trị; nếu chúng ta chối Ngài, thì Ngài cũng sẽ chối chúng ta" (II Timôthê 2:12).
"Nhưng có kẻ đã làm chứng rằng: Loài người là gì,
mà Chúa nhớ đến? Con người là ai, mà Chúa săn sóc đến? Chúa đã đặt Người ở dưới
thiên sứ một chút; Cho Người đội mão triều vinh hiển tôn trọng; Và đặt mọi vật
dưới chân người. Đức Chúa Trời đã khiến mọi vật phục Đức Chúa Jêsus như vậy;
thì chẳng để cho một vật nào chẳng phục Ngài; song hiện nay chúng ta chưa thấy
mọi vật phục Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus nầy, mà đã ở dưới các thiên sứ một
chút, chúng ta thấy Ngài, vì sự chết Ngài đã chịu được đội mão triều vinh hiển
tôn trọng. Ấy vậy, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus đã vì mọi
người nếm sự chết" (Hêbơrơ 2:6-9).
"Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy
giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chết bị đốt mà tiêu
tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả. Vì mọi vật đó phải
tiêu tán thì anh em đáng nên thánh và tin kính trong mọi sự ăn ở của mình là
dường nào, trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày
các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi!
Vả, theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công
bình ăn ở" (II Phierơ 3:10-13).
"và Ngài đã làm cho những người ấy nên nước, và
thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời chúng ta; những người ấy sẽ trị vì trên mặt đất" (Khải huyền 5:10).
"Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ
nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa ... Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi
mắt chúng, sẽ không có sự chết ,cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn
nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi” (Khải huyền 21:1, 4).
"Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa
Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; chúng sẽ
được thấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, và
chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa
Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời" (Khải
huyền 22:3-5).
Tư tưởng 1. Con người cần
phải làm hai việc:
1) Con người cần phải ăn năn, xây lại cùng
Đức Chúa Trời.
"Phi-e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải
nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-tem, để được tha tội mình, rồi sẽ được
lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh" (Công Vụ các Sứ Đồ 2:38).
"Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho
tội lỗi mình được xóa đi, hầu cho kỳ thơ thái đến từ Chúa" (Công Vụ các Sứ Đồ 3:19-20).
"Vậy, hãy ăn năn điều ác mình, và cầu nguyện Chúa,
hầu cho ý tưởng của lòng ngươi đó họa may được tha cho" (Công Vụ các
Sứ Đồ 8:22).
"và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta,
hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta
ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ" (II Sử ký 7:14).
"Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ
các ý tưởng; hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến
cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào" (Êsai 55:7).
"Song nếu kẻ dữ xây bỏ hết thảy tội mình đã phạm,
nếu nó giữ mọi luật lệ ta, và nếu nó làm theo luật pháp và hiệp với lẽ thật,
chắc thật nó sẽ sống và không chết đâu" (Êxêchiên 18:21).
"Hãy liệng xa các ngươi mọi sự phạm pháp mà tự
mình đã làm. Hãy làm cho mình lòng mới và thần mới; vì, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, làm
sao mà các ngươi muốn chết?" (Êxêchiên 18:31).
2) Con người cần phải tìm kiếm Đức Chúa
Trời để được khôn ngoan trong việc tìm cách bắt phục và khống chế đất. Khả năng
quản trị đất của chúng ta và bản chất đồi bại của nó đã bị suy yếu và hư hỏng
đi, nhưng chúng ta cần phải lao động tích cực để bắt phục mọi sự chúng ta có
thể. Mọi tình trạng bạo lực và đồi bại — cả trong thiên nhiên và trong con
người — cần phải được khống chế với hết khả năng của chúng ta. Đức Chúa Trời có
thể ban cho chúng ta sự khôn ngoan khi chúng ta lao động để điều khiển nó, nếu
chúng ta chịu cầu hỏi Ngài.
" Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa,
sẽ mở cho. Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở" (Mathiơ 7:7-8).
"Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy
cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc
ai, thì kẻ ấy sẽ được ban cho. Nhưng phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ;
vì kẻ hay nghi ngờ giống như sóng biển, bị gió động và đưa đi đây đi đó. Người
như thế chớ nên tưởng mình lãnh được vật chi từ nơi Chúa: ấy là một người phân
tâm, phàm làm việc gì đều không định" (Giacơ 1:5-8).
"Hỡi anh em yêu dấu, chớ tự dối mình: mọi ân điển
tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà
xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải
nào" (Giacơ 1:16-17).
5. (1:29-30) Đồ ăn —
Rau cỏ —Đời sống thực vật — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời cung ứng rau cỏ của đất để nuôi
dưỡng con người và động vật. Hãy nhớ: Đức Chúa Trời đang gặp gỡ với con người,
chia sẻ con người là ai và lý do tại sao người được dựng nên và được đặt ở trên
đất (xem chú thích 3 — Sáng thế ký 1:28 để thảo luận). Hãy chú ý
vài sự kiện:
1. Con người và động
vật là loài ăn chay trong sự sáng tạo nguyên thủy của địa cầu. Chẳng có một
việc gì là ăn thịt cả. Ăn thịt chỉ đến sau khi có sự sa ngã (Sáng thế ký 9:3).
2. Con người và động
vật được ban cho đồ ăn dư dật: các thứ rau cỏ, hoa quả. Họ được ban cho từng
thứ thực vật có hột giống và từng cây kết quả.
3. Hết thảy đất đai
của địa cầu đều kết quả. Có sự sống của rau cỏ và thực vật ở khắp nơi, và nhiều
vô số. Hãy chú ý câu:
"mọc khắp mặt đất" (Sáng thế ký 1:29). Rõ ràng, chẳng có đất nào
là hoang vu hay trơ trụi ở trên đất.
4. Kể từ khi con
người sa vào trong tội lỗi, đất và tình trạng kết quả của nó đã bị ảnh hưởng.
Con người đã lạm dụng và tiếp tục lạm dụng đất và đời sống thực vật hay rau cỏ
của nó, thậm chí lên tới điểm đe dọa sự sinh tồn của các thế hệ tương lai. Con
người đang hủy diệt nhanh chóng đời sống thực vật của địa cầu bằng cách phát
triển nhà ở và thương mại và bằng cách làm ô nhiễm. Con người đang làm ô nhiễm
và san phẳng đất đai của địa cầu nhanh đến nỗi mọi tài nguyên của đất đã bị làm
cho cạn kiệt cách thê thảm. Chúng đang bị làm cho cạn kiệt bởi...
+ mưa acid
+ hủy diệt rừng nhiệt đới và đời sống thực
vật khác
+ rác thải hóa học đe dọa nhiều nơi
+ thất bại không tái chế được các loại vật
chất không còn sử dụng nữa
Tư tưởng 1. Ân điển và sự
quan phòng của Đức Chúa Trời rõ ràng được thấy có ở phân đoạn Kinh thánh nầy.
Đức Chúa Trời đã tiếp trợ cho con người, tiếp trợ đủ rau cỏ và hoa quả để nuôi
mọi người. Con người chỉ có một trách nhiệm mà thôi:
"Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời
và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa" (Mathiơ 6:33).
"Sự công bình Chúa giống như núi Đức Chúa Trời; Sự
đoán xét Chúa khác nào vực rất sâu. Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài bảo tồn loài người
và thú vật" (Thi thiên 36:6).
Tư tưởng 2. Đất và bản
chất của nó tạo ra tình trạng kết quả và đồ ăn được ban cho bởi Đức Chúa Trời.
Con người được trao cho trách nhiệm phải "bắt phục đất" — sử dụng đất để kết quả giống như nhiều mùa
gặt là có cần. Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen và tin cậy vì thực phẩm nào là
cần thiết để trưởng dưỡng địa cầu. Nhưng trong khi ngợi khen và tin cậy Đức
Chúa Trời, con người cần phải làm việc để có bánh ăn cho mình.
"Khi chúng tôi ở cùng anh em, cũng đã rao bảo cho
anh em rằng: nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa. Vả, chúng tôi
nghe trong anh em có kẻ ăn ở bậy bạ, chẳng hề làm lụng, trở chăm những sự vô
ích thôi. Chúng tôi nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ, bảo và khuyên những kẻ đó
phải yên lặng mà làm việc, hầu cho ăn bánh của mình làm ra. Hỡi anh em, phần
anh em chớ nên chán mệt làm sự lành" (II Têsalônica
3:10-13).
"ráng tập ăn ở cho yên lặng, săn sóc việc riêng
mình, lấy chính tay mình làm lụng, như chúng tôi đã dặn bảo anh em, hầu cho ăn
ở với người ngoại cách ngay thẳng, và không thiếu chi hết" (I Têsalônica
4:11-12).
Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời
đã ban đồ ăn cho con người để nâng đỡ sự sống của họ. Con người không nên tìm
kiếm đồ ăn để tiêu thụ nó cho tư dục của mình. Con người nên tìm kiếm đúng số
lượng đồ ăn nào là cần thiết để nâng đỡ sự sống của mình.
"Trong lòng họ thử Đức Chúa Trời, Mà cầu xin đồ ăn
theo tình dục mình" (Thi thiên 78:18).
"Vả, Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng không
chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, nên cầu xin người làm đầu hoạn
quan để đừng bắt mình phải tự làm ô uế”
(Đaniên 1:8,
đối chiếu Đaniên
1:8-15).
Tư tưởng 4. Con người nên
nhận lãnh đồ ăn bằng cách dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì cớ đồ ăn đó.
"Nói như vậy rồi, người bèn lấy bánh, đứng trước
mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời rồi, thì bẻ ra và ăn" (Công Vụ
các Sứ Đồ 27:35).
6. (1:31) Con người — Sự sáng
tạo: Đức Chúa Trời nhìn thấy sự sáng tạo của Ngài là
"tốt lành" —
mọi sự được dựng nên trong sáu ngày sáng tạo, kể cả loài người, phu phỉ chức
năng của nó. Câu nầy đề cập tới mọi sự trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Nó
đề cập tới con người, phải, nhưng Đức Chúa Trời cũng đang nhìn lại xem mọi sự
mà Ngài đã dựng nên. Hãy chú ý hai sự kiện:
1. Con người có khả
năng chu toàn mục đích và chức năng của mình ở trên đất. Con người được dựng
nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời: con người có chính hơi thở — sự sống bất tử — của Đức
Chúa Trời. Vì cớ đó, con người có...
+ khả năng thờ phượng, tương giao, và giao
thông với Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 1:26-27).
+ khả năng cư trú trên đất (Sáng thế ký 1:28).
+ khả năng phục vụ Đức Chúa Trời bằng cách
bắt phục, phát triển, và quản trị đất (Sáng thế ký 1:28).
+ khả năng được trưởng dưỡng và nâng đỡ bởi
mọi tài nguyên của đất (Sáng thế ký 1:29-30).
2. Đức Chúa Trời
nhìn vào mọi sự mà Ngài đã dựng nên, và "kìa, mọi việc thật rất tốt
lành" (Sáng thế ký 1:31). Từ ngữ "Kìa" kêu gọi sự chú ý sự sáng tạo của Đức Chúa Trời tốt lành —
trọn vẹn — là dường nào. Đức Chúa Trời cực kỳ đẹp lòng với sự sáng tạo của Ngài.
Mọi sự đều rất tốt lành, trọn vẹn đến từng chi tiết. Mọi sự chính xác y như Đức
Chúa Trời đã hoạch định: mọi sự đều trọn vẹn trong sự nâng đỡ con người ở trên
đất, trọn vẹn trong việc cung ứng một ngôi nhà cho con người khi họ lo chu toàn
mục đích mà Đức Chúa Trời người đã ban cho ở trên đất.
Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời
nhìn lại công việc của Ngài rồi đánh giá nó — một bài học dành cho con người
khi họ làm việc và phục vụ. Con người đáng phải nói: "Tôi tư tưởng về đường lối tôi, Bèn trở bước
tôi về chứng cớ Chúa" (Thi thiên 119:59).
Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời
nhìn lại và thấy rõ mọi sự — phu phỉ chức năng của nó. Chính mình Đức Chúa Trời
đề ra một tấm gương cho con người: mọi sự đều tốt lành và phu phỉ chức năng của
nó. Mọi sự trong đời sống của con người đều có mục đích, lên tới một cấp độ tối
hậu (Côlôse 3:17, 23).
"Ngươi hãy hầu việc Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi;
Ngài sẽ ban ơn cho vật ăn uống của ngươi và tiêu trừ các bịnh hoạn giữa vòng
ngươi" (Xuất Êdíptô ký 23:25).
"Vậy, hỡi Y-sơ-ra-ên, bây giờ Giê-hô-va Đức Chúa
Trời ngươi đòi ngươi điều chi? há chẳng phải đòi ngươi kính sợ Giê-hô-va, Đức
Chúa Trời ngươi, đi theo các đạo Ngài, hết lòng hết ý kính mến và phục sự
Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi" (Phục truyền luật lệ
ký 10:12).
"Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ, Và mừng
rỡ cách run rẩy" (Thi thiên 2:11).
"vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu
chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều
thuộc về Chúa cả" (Rôma 14:8).
"lại Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì
chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình" (II Côrinhtô 5:15).
"Mặc dầu anh em nói hãy làm, cũng phải nhân danh
Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa
Cha" (Côlôse 3:17).
"Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho
Chúa, chớ không phải làm cho người ta"
(Côlôse 3:23).
"Như vậy, vì chúng ta có phần trong một nước không
hay rúng động, nên hãy cảm ơn, hầu cho lấy lòng kính sợ hầu việc Đức Chúa Trời
một cách đẹp lòng Ngài" (Hêbơrơ 12:28).
Tư tưởng 3. Những gì Đức
Chúa Trời dựng nên, Ngài đã nom thấy. Ngài nhìn thấy mọi sự mà Ngài đã dựng nên.
Đây là lời bảo đảm quan trọng cho người công bình khi họ có nhu cầu. Đây cũng
là lời cảnh cáo cho kẻ ác khi họ phạm tội. Không một điều gì tránh thoát được
mắt Ngài hay sự hiện diện của Ngài (Thi thiên 139:1-16).
"Vì mắt ta chăm chỉ mọi đường lối chúng nó, không
giấu khỏi trước mặt ta được, tội lỗi chúng nó không khuất khỏi mắt ta đâu" (Giêrêmi 16:17).
"Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! các ngươi đã nói làm vậy; vì
ta biết những sự nghĩ trong trí các ngươi" (Êxêchiên
11:5).
"Chúng nó không nghĩ trong lòng rằng ta nhớ mọi sự
gian ác của chúng nó. Bây giờ tội phạm chúng nó ràng rịt lấy mình; chúng nó ở
trước mặt ta" (Ôsê 7:2).
"Vì Đức Chúa Trời sẽ đem đoán xét các công việc,
đến đỗi việc kín nhiệm hơn hết, hoặc thiện hoặc ác cũng vậy" (Truyền đạo 12:14).
"Chẳng có sự gì giấu mà không phải lộ ra, chẳng có
sự gì kín mà không được biết" (Luca 12:2).
"Vậy, chớ xét đoán sớm quá, hãy đợi Chúa đến;
chính Chúa sẽ tỏ những sự giấu trong nơi tối ra nơi sáng, và bày ra những sự
toan định trong lòng người; bấy giờ, ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự
khen ngợi mình đáng lãnh" (I Côrinhtô 4:5).
Tư tưởng 4. Lúc cuối đời,
một người có khả năng nhìn lại cuộc đời mình và hãy nói y như Đức Chúa Trời đã
phán: "Mọi sự đều rất tốt lành!"
Tư tưởng 5. Đức Chúa Trời
nhìn thấy: "Mọi sự đều rất tốt lành!" — phu phỉ chức năng của nó (Sáng thế ký 1:31). Những gì Đức Chúa Trời
bắt đầu, Ngài sẽ làm thành. Điều nầy cũng rất thực trong ơn cứu rỗi. Đức Chúa
Trời sẽ hoàn tất ơn cứu rỗi của Ngài.
"tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành
trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ" (Philíp 1:6).
"Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ
làm việc đó" (I Têsalônica 5:24).
"ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ
thẹn vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã
phó thác cho đến ngày đó" (II Timôthê 1:12).
"là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa
Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!" (I Phierơ 1:5).
"Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp
phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ
trách được, là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Jêsus
Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng
thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men" (Giuđe 24-25).