Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

Sáng thế ký 1:3-5: "Sự Dựng Nên Các Từng Trời Và Đất"



Sáng thế ký 1:3-5: “3Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng. 4Đức Chúa Trời thấy sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối. 5Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhất”.
Bố Cục
B. Ngày thứ nhứt: Dựng nên sự sáng, 1:3-5
1 Lời của Đức Chúa Trời dựng nên sự sáng (câu 3)
2 Đức Chúa Trời thấy sự sáng tạo của Ngài là "tốt lành" — làm tròn chức năng của nó (câu 4)
3 Đức Chúa Trời đặt tên cho sự sáng là Ngày và sự tối tăm là Đêm (câu 5)

SÁNG THẾ KÝ: PHẦN I
SỰ DỰNG NÊN CÁC TỪNG TRỜI VÀ ĐẤT,
1:1-2:3
B. Ngày thứ nhứt: Dựng nên sự sáng, 1:3-5
(1:3-5) Phần giới thiệu: hãy ghi nhớ chặng đường dựng nên địa cầu. Nó được treo trong khoảng không, chưa có hình thể, chưa phát triển và chưa hoàn tất. Bề mặt của cả địa cầu bị che phủ với "nước sôi sụt, sủi bọt và nguyên sinh" (H.C. Leupold. Genesis, Vol.1, p.47); và một lớp sương dày đặc, phủ trên mặt nước. Đất cũng bị bao phủ bởi một tấm mền tối tăm đen kịt. Phác họa bối cảnh: thật là kỳ quái. Đây là hình ảnh của địa cầu nguyên sinh, một địa cầu chưa phát triển và hình thành trọn vẹn, một địa cầu có lớp sương dày đặc, kỳ dị phủ trên làn nước đang sôi sụt, gầm rống và nguyên sinh — mọi sự bị trùm phủ dưới bóng tối tăm đen kịt.
Giờ đây Đức Chúa Trời đã sẵn sàng vận hành sang chặng đường kế tiếp của sự sáng tạo. Ngài sẵn sàng mở ra sự việc được biết rõ là sáu ngày sáng tạo, là thời gian Ngài có cần để dựng nên vũ trụ. (Xem Phần Giới Thiệu Bảy Ngày Sáng Tạo, Nghiên Cứu #9 — Sáng thế ký 1:1-2:3). Đây là "Ngày Thứ Nhứt: Dựng Nên Sự Sáng".
1. Lời của Đức Chúa Trời dựng nên sự sáng (câu 3).
2. Đức Chúa Trời thấy sự sáng tạo của Ngài là "tốt lành" — làm tròn chức năng của nó (câu 4).
3. Đức Chúa Trời đặt tên cho sự sáng là Ngày và sự tối tăm là Đêm (câu 5).

1. (1:3) Sự sáng — Sự Sáng Tạo — Lời của Đức Chúa Trời: Lời của Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng. Cụm từ "phải có" là một từ ngữ trong tiếng Hybálai (hayah). Đây là một từ ngữ mạnh mẽ, bắt buộc, năng động. Đức Chúa Trời truyền "phải có sự sáng", thì có sự sáng. Sự sáng không phải là đời đời; nó không luôn luôn hiện hữu. Sự sáng đã bước vào hiện thực giống như bao thứ khác trong vũ trụ. Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng.
Giờ đây, sự sáng là gì? Sự sáng là một năng lực phát ra ánh sáng tỏa ra từ một thiên thể. Trong trường hợp địa cầu, ánh sáng chiếu ra từ thiên thể mặt trời. Khoa học cho chúng ta biết rằng có hàng tỉ tỉ mặt trời hay các ngôi sao (một ngôi sao là một mặt trời) được rãi khắp vũ trụ, hàng tỉ tỉ mặt trời chiếu tỏa ra ánh sáng. Khoa học cũng cho chúng ta biết rằng các thiên thể trên trời, mặt trời hay các ngôi sao, đã được dựng nên và hình thành rồi lịm tắt luôn luôn. Được rãi ra khắp vũ trụ — khắp khoảng không gian kia — có hàng tỉ tỉ mặt trời trong các chặng đường khác nhau cho việc ra đời, lớn lên và lịm tắt. Các chặng đường nầy được sắp theo hàng dọc...
+ từ chặng đường thứ nhứt nơi các chất khí bắt đầu hình thành và tạo ra hơi nóng cực kỳ,
+ trải qua sự hình thành một khối cứng hay thiên thể bốc cháy như núi lửa,
+ trải qua việc bốc cháy như núi lửa và lịm tắt của mặt trời.
Giờ đây, hãy lần ngược lại Sáng thế ký 1:1: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất". Đức Chúa Trời đã dựng nên các từng trời, các ngôi sao hay các mặt trời, thuộc về vũ trụ rồi ở Sáng thế ký 1:1. Vậy thì, Sáng thế ký 1:3 có ý nói gì khi câu Kinh thánh nầy nói rằng: "Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng"? Câu nầy có thể nói tới một trong bốn việc.
1. "Phải có sự sáng": câu nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng trong vũ trụ suốt cõi vũ trụ. Có lẽ vũ trụ đã ở trong chặng đường chưa hoàn tất cũng giống như địa cầu vậy. Đức Chúa Trời chưa hình thành hay hoàn tất các mặt trời trong không gian. Các thiên thể đã được dựng nên giống như địa cầu vậy, trong chặng đường phát triển phức tạp. Tất cả các thiên thể đều ở trong chặng đường thuộc thể khí, nhưng giờ đây Đức Chúa Trời đã sẵn sàng để dựng nên sự sáng. Vì vậy, Ngài đã hoàn tất một số — chỉ một số thôi — các mặt trời, khiến cho các yếu tố thuộc thể khí (nguyên tử, protons, neutrons, electrons, hay bất cứ yếu tố cơ bản nhất hình thành các ngôi sao) hình thành khối cứng rắn, thành hình thể trọn vẹn của chúng.
Nói đơn giản, khi Đức Chúa Trời phán: "Phải có sự sáng", Ngài đã hoàn tất việc hình thành một số mặt trời. Suốt cõi vũ trụ, hết mặt trời nầy đến mặt trời khác bắt đầu cung ứng ánh sáng, hơi nóng và vẻ đẹp của chúng. Đức Chúa Trời phán: "Phải có sự sáng: thì có sự sáng" (Sáng thế ký 1:3).
2. "Phải có sự sáng": câu nầy có thể nói rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên trời và đất bằng những gì chúng ta gọi là luật thiên nhiên hay luật tự nhiên. Có lẽ Đức Chúa Trời đã dựng nên nguyên tử, protons, neutrons, electrons, các chất khí, hay hóa chất — bất cứ thứ hạt chi nhỏ nhất hay khối lượng và năng lượng. Có lẽ Đức Chúa Trời khi ấy đưa luật thiên nhiên vào hiện thực để cai quản các thiên thể. Điều nầy có ý nói rằng các ngôi sao và những mặt trời đã khởi sự ở chặng thể khí và rồi phát triển thành thể rắn giống như chúng hiện có hôm nay trong không gian. Khi Đức Chúa Trời phán: "Phải có sự sáng", Ngài đã đưa vào chuyển động luật thiên nhiên vật chất và năng lượng và phát triển các mặt trời cùng những ngôi sao sẽ cung cấp ánh sáng, vật chất và năng lượng sẽ tiếp tục để phát triển các mặt trời cùng những ngôi sao xuyên suốt các thế đại. Đầy là những gì chắc chắn đang xảy ra hôm nay, vì khoa học cho chúng ta biết một việc rất ngạc nhiên: các thể khí, các thứ hạt, những phân tử trôi nổi trong không gian tác động qua lại và kết lại với nhau. Chúng kết lại với nhau với năng lực của một khối lớn đang cháy với nhiệt độ thật cao đang được dựng nên. Nhơn đó các ngôi sao được tạo ra và hình thành suốt cõi vũ trụ. Tất nhiên, các luật lệ tạo ra hiện tượng nầy xảy ra đều do Đức Chúa Trời dựng nên và đưa ra chuyển động.
3. "Phải có sự sáng": câu nầy có thể nói rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng độc lập hoàn toàn đối với các thiên thể (nghĩa là, các mặt trời hay những ngôi sao). Khi Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất, có lẽ Ngài chỉ treo chúng trong khoảng không (Sáng thế ký 1:1). Có lẽ các luật lệ cai quản chức năng của chúng chưa được dựng nên hay chưa được đưa vào chuyển động. Những thiên thể chỉ đang treo ở đó trong khoảng không, song chúng chưa thực thi chức năng của chúng, chưa xoay tròn, chưa được đưa vào chuyển động, chưa bay trong không gian. Nhưng khi Đức Chúa Trời phán: "Phải có sự sáng", năng lượng dậy lên chiếu ra ánh sáng đã được cung ứng cho một số ngôi sao hay mặt trời. Các luật lệ vật lý cai quản chúng đã được đưa vào chuyển động, và những mặt trời của vũ trụ đã khởi sự hoạt động. Chúng bắt đầu thực thi chức năng mà vì đó chúng được dựng nên: chúng cung ứng ánh sáng.
4. "Phải có sự sáng": câu nầy có thể nói rằng các đám mây và sương mù dày đặc (mù sương) che phủ đất bắt đầu bốc hơi rồi mỏng dần đi. Chúng bay hơi rồi mỏng dần đủ để cho những tia sáng đầu tiên chiếu vào địa cầu. Nếu đây là điều đã xảy ra, thì phải tốn hơn ba ngày trước khi các đám mây và sương mù hoàn toàn tan đi và mặt trời, mặt trăng, cùng các ngôi sao có thể nhìn thấy rõ ràng từ địa cầu. (Xem bố cục — Sáng thế ký 1:14-19 và chú thích — Sáng thế ký 1:14-19 để thảo luận).
Chú ý: đây là thế mạnh mà những ai theo Gap Theory đang giữ lấy. (Xem Nghiên Cứu #4 — Sáng thế ký 1:2 để thảo luận). Thuyết Lỗ Hỗng nói rằng sự sa ngã của Satan đã tàn phá đến nỗi Đức Chúa Trời phải xét đoán nghiên ngặt Satan cùng quyền quản trị của hắn. Một phần quyền quản trị của Satan bao gồm cả địa cầu. Vì thế, Sáng thế ký 1:2 là phần mô tả thể nào Đức Chúa Trời phải nghiêm ngặt phán xét địa cầu. Một phần của sự phán xét bao gồm tấm mền tăm tối bao lấy địa cầu. Đức Chúa Trời đã truyền cho mặt trời giữ lại ánh sáng của nó đối với địa cầu. Bằng cách nào? Bằng cách che phủ đất với lớp sương mù và mây mù dày đặc. Ý tưởng nầy được rút ra từ các phân đoạn Kinh thánh sau đây:
“Ngài sáng lập đất trên các nền nó; Đất sẽ không bị rúng động đến đời đời. Chúa lấy vực sâu bao phủ đất như bằng cái áo, Nước thì cao hơn các núi. Chúa hăm dọa, nước bèn giựt lại; Nghe tiếng sấm Chúa, nước lật đật chạy trốn. Núi lố lên, trũng sụp sâu xuống chốn mà Chúa đã định cho nó. Chúa định chân cho nước để nước không hề qua khỏi, Không còn trở lại ngập đất nữa” (Thi thiên 104:5-9). (Lưu ý: Phân đoạn Kinh thánh nầy có thể và gần như là đề cập tới Trận Đại Hồng Thủy trong thời của Nôê).
“Nầy, Đức Giê-hô-va làm cho đất trống không và hoang vu; Ngài lật đổ mặt đất và làm tan lạc dân cư” (Thi thiên 24:1).
“Vì Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các từng trời, tức là Đức Chúa Trời đã tạo thành đất và làm ra nó, đã lập nó cho bền vững, chẳng phải dựng nên là trống không, bèn đã làm nên để dân ở, phán như vầy: Ta là Đức Giê-hô-va, không có Đấng nào khác! (Thi thiên 45:18).
“Tôi xem đất: nầy, là vô hình và trống không; xem các từng trời: thì không có sự sáng. Tôi xem các núi, thấy đều rúng động; mọi gò đều lung lay. Tôi xem: chẳng còn một người, hết thảy chim trời đều trốn tránh. Tôi xem thấy ruộng tốt đã trở nên đồng vắng, hết thảy các thành đều bị hủy phá trước mặt Đức Giê-hô-va, bởi cơn nóng giận của Ngài” (Giêrêmi 4:23-26).
“Chúng nó có ý quên lững đi rằng buổi xưa bởi lời Đức Chúa Trời có các từng trời và trái đất, đất ra từ Nước và làm nên ở giữa nước, thế gian bấy giờ cũng bị hủy phá như vậy, là bị chìm đắm bởi nước lụt. Nhưng trời đất thời bây giờ cũng là bởi lời ấy mà còn lại, và để dành cho lửa; lửa sẽ đốt nó đi trong ngày phán xét và hủy phá kẻ ác” (II Phierơ 3:5-7)
.
Tư tưởng 1: Ánh sáng là thứ thanh sạch và sáng láng nhất mà con người được biết. Ánh sáng thường được sử dụng phác họa một cảnh tượng thật vinh hiển và huy hoàng. Ánh sáng thường làm cho người ta phải say mê và thêm cảm hứng.
“Sự sáng con mắt khiến lòng vui vẻ; Và một tin lành làm cho xương cốt được béo tốt” (Châm ngôn 15:30).
“Ánh sáng thật là êm dịu; con mắt thấy mặt trời lấy làm vui thích” (Truyền đạo 11:7).
Tư tưởng 2: Kinh thánh công bố rằng Đức Chúa Trời là sự sáng. Sự sáng là hiện thân của Đức Chúa Trời, sự sáng ấy ở trong Ngài, trong sự hiện hữu của Ngài và trong bổn tánh của Ngài. Đức Chúa Trời ngự trong sự chói sáng và vinh hiển của ánh sáng. Bất cứ Ngài ở đâu, nét huy hoàng và sự vinh hiển của ánh sáng chiếu tỏa ra sự hiện diện của Ngài. Thực vậy, chẳng có một nhu cần nào về mặt trời khi sự vinh quang của Đức Chúa Trời hiện diện. Vinh quang của sự hiện diện Ngài chỉ tỏa ra thứ ánh sáng chói chang nhất có thể tưởng tượng được, thật sáng chói và vinh hiển đến nỗi nó sẽ nung đốt xác thịt loài người. Bổn tánh sự sáng của Đức Chúa Trời là ánh sáng của sự thánh khiết Ngài. Đức Chúa Trời là thánh, đầy dẫy ánh sáng và nét huy hoàng của sự thánh khiết. (Xem chú thích 5 – I Giăng 1:5 để thảo luận).
1) Đức Chúa Trời là sự sáng vô hạn và đời đời
“Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu” (I Giăng 1:5).
2) Đức Chúa Trời là Cha của sự sáng
“mọi ân điển tốt lành cùng sự ban cho trọn vẹn đều đến từ nơi cao và bởi Cha sáng láng mà xuống, trong Ngài chẳng có một sự thay đổi, cũng chẳng có bóng của sự biến cải nào” (Giacơ 1:17).
3) Đức Chúa Trời ngự trong sự sáng không thể đến gần được
“một mình Ngài có sự không hề chết, ở nơi sự sáng không thể đến gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men” (I Timôthê 6:16).
4) Người tin Chúa sẽ sống đời đời với Đức Chúa Trời trong thành thánh của Ngài. Thành thánh của Ngài sẽ là thủ phủ của trời mới đất mới, và hết thảy chúng ta sẽ sống ở đó trong sự rực rỡ của ánh sáng và vinh hiển của Đức Chúa Trời đời đời cho đến đời đời.
“Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng để soi sáng; vì vinh hiển của Đức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là ngọn đèn của thành. Các dân sẽ đi giữa sự sáng thành đó và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển mình vào đó” (Khải huyền 21:23-24).
“và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời” (Khải huyền 22:5).
Tư tưởng 3: Đức Chúa Trời không muốn con người cứ ở trong tối tăm, mà ở trong sự sáng. Sự sống không tồn tại trong chỗ tối tăm – điều đó là bất khả thi. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng hầu cho con người có thể sống và ăn ở trên đất.
Điều nầy cũng rất thực trong lãnh vực thuộc linh của cuộc sống. Đức Chúa Trời không muốn con người sống trong chỗ tăm tối thuộc linh, mà sống trong sự sáng thuộc linh. Đức Chúa Trời không muốn con người ăn ở trong tối tăm, vấp ngã, lần mò, dò dẫm, và túm níu, lạ lùng … về
+ chỗ mà người xuất thân
+ tại sao người có mặt ở đây trên đất
+ người sẽ đi đâu
Đức Chúa Trời không muốn con người ở trong chỗ tăm tối thuộc linh. Đức Chúa Trời biết rõ con người không thể tồn tại – con người không thể sống đời đời – nếu con người ăn ở trong chỗ tối tăm thuộc linh.
Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã ban cho con người Sự Sáng của Sự Sống để con người có thể sinh sống và bước đi, hầu cho con người có thể nhìn thấy và nhận biệt lẽ thật về thế gian và con người. Đức Chúa Trời đã ban cho con người Sự Sáng của Sự Sống để con người có thể nhìn thấy và nhận biết mình ra từ đâu, tại sao mình có mặt ở đây trên đất, và mình sẽ đi về đâu.
Sự Sáng của Sự Sống là gì vậy? Đó là Đức Chúa Jêsus Christ, Con của Đức Chúa Trời. (Xem Nghiên Cứu #1 – Giăng 8:12).
“Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người” (Giăng 1:4).
“Vả, sự đoán xét đó là như vầy: sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm của họ là xấu xa” (Giăng 3:19).
“Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán cùng chúng rằng: Ta là sự sáng của thế gian; người nào theo ta, chẳng đi trong nơi tối tăm, nhưng có ánh sáng của sự sống” (Giăng 8:12).
“Đang khi ta còn ở thế gian, ta là sự sáng của thế gian” (Giăng 9:5).
“Đức Chúa Jêsus bèn đáp rằng: Sự sáng còn ở giữa các ngươi ít lâu; hãy đi trong khi các ngươi còn có sự sáng, e rằng sự tối tăm đến thình lình cùng các ngươi chăng; kẻ đi trong nơi tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu. Các ngươi đang có sự sáng, hãy tin sự sáng, hầu cho trở nên con cái của sự sáng. Đức Chúa Jêsus phán như vậy, rồi đi, và ẩn mình cách xa họ” (Giăng 12:35-36).
“Ta là sự sáng đã đến thế gian, để ai tin ta, chẳng ở nơi tối tăm nữa” (Giăng 12:46).
“Đêm đã khuya, ngày gần đến; vậy chúng ta hãy lột bỏ những việc tối tăm mà mặc lấy áo giáp sáng láng” (Rôma 13:12).
“Vì Đức Chúa Trời, là Đấng có phán: Sự sáng phải soi từ trong sự tối tăm! đã làm cho sự sáng Ngài chói lòa trong lòng chúng tôi, đặng sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời soi sáng nơi mặt Đức Chúa Jêsus Christ” (II Côrinhtô 4:6).
“Cho nên có chép rằng: Ngươi đang ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi” (Êphêsô 5:14).

2. (1:4) Sự sáng — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời đã nhìn thấy sự sáng tạo của Ngài là tốt lành — sự sáng đã chu toàn chức năng của nó. Hình ảnh cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã nhìn xem sự sáng và đã thấy rằng sự sáng là tốt lành. Từ ngữ tốt lành đề cập tới giá trị, mục đích, và chức năng của một việc gì đó. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã nhìn vào rồi thấy rõ sự sáng là tốt lành: sự sáng rất có giá trị, rất có giá trị; sự sáng đã chu toàn mục đích và chức năng của nó. Đâu là mục đích và chức năng của sự sáng? Hãy lưu ý câu nói: "Đức Chúa Trời phân sự sáng ra cùng sự tối tăm". Nếu sự sáng không tồn tại — nếu sự sáng không bị phân ra đối với sự tối tăm — địa cầu sẽ ở trong sự tối tăm hoàn toàn.
+ Nếu địa cầu không có mặt trời nào hết, đất sẽ chìm trong bóng tối tăm hoàn toàn.
+ Nếu địa cầu vẫn còn bị lớp sương mù dày đặc kia che phủ (mây và sương mù), đất sẽ bị phủ trong sự tối tăm hoàn toàn.
Sự sáng ít nhất có năm chức năng hay mục đích cơ bản.
+ Sáng phân cùng tối để cung ứng một số ánh sáng cho địa cầu và vũ trụ.
+ Sự sáng làm cho muôn vật lớn lên. Sự sống không thể tồn tại nếu không có sự sáng. Con người, thú vật, cây xanh, và loài tảo — tất cả đều nương vào ánh sáng để sống ở trên đất. Cây xanh và tảo chuyển ánh sáng thành năng lượng, rồi chúng nhờ đó mà lớn lên (tiến trình được biết là sự quang hợp). Không có ánh sáng sẽ chẳng có một thực vật nào ở trên đất để nuôi sống con người và động vật. Sự sáng là một yếu tố tuyệt đối cơ bản cho cuộc sống và sự lớn lên.
+ Ánh sáng cung ứng hơi nóng và sự ấm áp.
+ Ánh sáng cung ứng màu sắc và vẻ đẹp cho muôn vật.
+ Ánh sáng giúp cho con người và động vật nhìn thấy; ánh sáng bày tỏ ra mọi sự — cả vũ trụ và cả đất — hầu cho con người và sinh vật có thể nhìn thấy và gánh vác chức năng của mình trong một thế giới đa dạng và đẹp đẽ.
Khi "Đức Chúa Trời thấy sự sáng, [Ngài thấy] điều đó là tốt lành". Sự sáng chu toàn chức năng của nó. Sự sáng thật chính xác y như Đức Chúa Trời đã hoạch định; nó được thiết kế và thích ứng trọn vẹn với mục đích của nó; nó hữu ích và thích nghi; nó đang hoạt động y như Đức Chúa Trời mong muốn.
Tư tưởng 1: Việc dựng nên sự sáng là một sự ban cho kỳ diệu nhất đến từ Đức Chúa Trời.
+ Sự sáng cung ứng hơi nóng và sự ấm áp cho con người.
+ Sự sáng cung ứng màu sắc và vẻ đẹp cho vũ trụ cho con người.
+ Sự sáng khiến cho muốn vật lớn lên để con người có thực phẩm mà ăn.
+ Sự sáng giúp cho con người nhìn thấy vẻ đẹp của địa cầu và vũ trụ.

Tư tưởng 2. Việc dựng nên sự sáng giúp cho con người nhìn thấy hai điều.
1) Sự sáng giúp cho con người nhìn thấy vẻ đẹp sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Nó giúp cho con người nhìn thấy công việc lớn lao của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo, sự khôn sáng và quyền phép cả thể của Đức Chúa Trời (xem chú thích 3 — Sáng thế ký 1:1; cũng xem chú thích "Phần giới thiệu Bảy Ngày Sáng Tạo"Sáng thế ký 1:1-2:3).
2) Sự sáng giúp cho con người nhìn thấy thể nào công việc của Ngài được tỏ ra. Nó giúp cho con người chu toàn mục đích của mình ở trên đất.
Nhưng hãy chú ý: chỉ nhìn thấy và làm việc không có nghĩa là một người sẽ chu toàn mục đích của mình ở trên đất. Một người phải sống có trách nhiệm. Người phải bước theo Đức Chúa Jêsus Christ, chính mình Con của Đức Chúa Trời, để gặt hái mục đích, ý nghĩa, và tầm quan trọng trong cuộc sống. Người phải sử dụng các năng khiếu của mình — mọi khả năng và tài khéo — y như Đấng Christ đã căn dặn người. Khi ấy và chỉ khi ấy con người mới có thể chu toàn mục đích và làm tròn chức năng của mình ở trên đất.
Đức Chúa Trời đã ban cho con người sự sống và đã sai Con Ngài vào trong thế gian để chỉ cho con người phải sống và sinh hoạt như thế nào!?! Vì thế, con người phải làm theo những gì Đức Chúa Trời phán, hoặc giả con người sẽ không bao giờ có ý nghĩa và mục đích — không phải ý nghĩa và mục đích đời đời. Con người sẽ không có khả năng sống và sinh hoạt với Đức Chúa Trời — không phải đời đời, không vĩnh cửu — trừ phi con người sống y như Đấng Christ phán dạy.

Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng, đã phân sáng ra cùng tối, và Ngài đã dựng nên sự sáng ấy cho con người. Đức Chúa Trời sẽ làm y những việc ấy cho con người về mặt thuộc linh. Đức Chúa Trời sẽ ban cho con người sự sáng ở giữa sự tối tăm...
+ ánh sáng trật tự ở giữa mọi hỗn độn tối tăm.
+ ánh sáng mục đích ở giữa tình trạng trống vắng tối tăm.
+ ánh sáng tương giao ở giữa tình trạng cô độc tối tăm.
+ ánh sáng tri thức ở giữa tình trạng dốt nát tối tăm.
Đức Chúa Trời sẽ dựng nên sự sáng trong tấm lòng tối tăm, hỗn độn của con người hầu cho con người có thể nhìn biết Đức Chúa Trời — hầu cho con người có thể cảm nhận và ý thức được sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong chính linh hồn mình.
“Vì Đức Chúa Trời, là Đấng có phán: Sự sáng phải soi từ trong sự tối tăm! đã làm cho sự sáng Ngài chói lòa trong lòng chúng tôi, đặng sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời soi sáng nơi mặt Đức Chúa Jêsus Christ” (II Côrinhtô 4:6).
“mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn” (Côlôse 3:10).
Tư tưởng 4. Sự sáng và sự tối tăm không bao giờ hiệp chung với nhau hay làm hòa với nhau, không hề trong thiên nhiên. Cũng thực một lẽ ấy về mặt thuộc linh.

"Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hội hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng nhau được chăng?" (II Côrinhtô 6:14. Xem Nghiên Cứu #2 — Giăng 8:12).

Tư tưởng 5. Đức Chúa Trời đã dựng nên sự sáng. “Sáng” là một trong những từ quan trọng trong Kinh thánh.
1) Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu (I Giăng:1:5).
2) Đức Chúa Jêsus Christ là Sự Sáng của thế gian — là hiện thân của sự sáng thiên thượng (Giăng 8:12; Giăng 9:5).
3) Sự sáng láng thông biết về Đức Chúa Trời được thấy nơi gương mặt của Đức Chúa Jêsus Christ (II Côrinhtô 4:6).
4) Đức Chúa Jêsus Christ "soi sáng mọi người" nào đến trong thế gian (Giăng 1:9).
5) Những người tin Chúa được truyền cho phải trở nên "con cái của sự sáng" qua niềm tin nơi Sự Sáng, là chính mình Đức Chúa Jêsus Christ (Giăng 12:36).
6) Những người tin Chúa được chuyển từ chỗ thống trị của sự tối tăm sang Nước của Đấng Christ, là cơ nghiệp của sự sáng (Côlôse 1:13).
7) Trước khi họ đến với Đấng Christ, những người tin Chúa không những đang ở trong tối tăm mà còn là hiện thân của sự tối tăm nữa. Nhưng khi họ đến với Đấng Christ, những người tin Chúa được đặt để trong Sự Sáng và trở thành hiện thân của chính sự sáng (Êphêsô 5:8).
8) Những người tin Chúa là sự sáng của thế gian (Mathiơ 5:14-16).
9) Những người tin Chúa cần phải thắp ánh sáng của họ nơi ngọn đèn — để sự sáng của họ được thấy rõ (Mathiơ 5:15).
10) Những kẻ làm ác đang tránh né sự sáng (Giăng 3:20…).
11) Việc dựng nên sự sáng là một hình ảnh nói tới sự trục xuất bóng tối tăm thuộc linh (Sáng thế ký 1:2…).

3. (1:5) Sự sáng — Sự tối tăm — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là Ngày, và sự tối tăm là Đêm. Hãy chú ý hai sự kiện.
1. Đức Chúa Trời, không phải con người, đã đặt tên cho sự sáng và sự tối tăm. Điều nầy rất quan trọng. Sự việc cho thấy rằng Đức Chúa Trời là Chúa Tể của cả ngày và đêm, chớ không phải con người. Sự sáng và sự tối tăm, cả hai đều là một phần trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Cả hai đều tốt lành; cả hai đều có mục đích và chức năng của chúng trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.

Tư tưởng 1. Điều nầy có ý nói rằng con người mắc nợ thân thể và sự sống của mình đối với Đức Chúa Trời trong cả ban ngày lẫn ban đêm. Con người cần phải phục vụ Đức Chúa Trời cả ban ngày lẫn ban đêm. Con người không nên lạm dụng ban ngày hay ban đêm...
+ do sống lười biếng, nhếch nhác, hay tự mãn.
+ do làm hại thân thể, lý trí và tâm linh mình.
+ do chễnh mãng, dốt nát, hay chối bỏ Đức Chúa Trời.
+ do tiệc tùng, say sưa, hay lạm dụng ma túy.
+ do tự phụ, ngạo mạn, hay kiêu căng.
+ do say sưa, quá lậm, hay sống đồi bại.
+ do tỏ ra thành kiến, thiên vị, hay không công bằng.

Tư tưởng 2. Đức Chúa Trời là Chúa Tể của cả ngày lẫn đêm. Vì vậy, chẳng cần phải e sợ ban ngày hay ban đêm. Đức Chúa Trời có khả năng chăm sóc chúng ta trong chỗ sáng láng và trong chỗ tối tăm. Những người tin Chúa có thể sống từng phút trong từng ngày và từng phút trong từng đêm nhận biết rằng Đức Chúa Trời đang quan phòng họ. Chúng ta có thể nhận biết rằng chúng ta đang sống trong sự gìn giữ an toàn của Đức Chúa Trời. Chúng ta luôn luôn ở dưới con mắt quan phòng của Đức Chúa Trời — ngày và đêm.

"Hai con chim sẻ há chẳng từng bị bán một đồng tiền sao? Và ví không theo ý muốn Cha các ngươi, thì chẳng hề một con nào rơi xuống đất. Tóc trên đầu các ngươi cũng đã đếm hết rồi. Vậy, đừng sợ chi hết, vì các ngươi quí trọng hơn nhiều con chim sẻ" (Mathiơ 10:29-31).
"ấy lại là cớ mà ta chịu khổ. Nhưng ta chẳng hề hổ thẹn vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó" (
II Timôthê 1:12).
"Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào trong nước trên trời của Ngài. Nguyền xin sự vinh hiển về nơi Ngài muôn đời không cùng! A-men" (
II Timôthê 4:18).
"Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế" (
Mathiơ 28:19-20).
"Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi; Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài, và tôi được cứu tiếp; Vì vậy, lòng tôi rất mừng rỡ, Tôi sẽ lấy bài ca mà ngợi khen Ngài" (
Thi thiên 28:7).
"Còn tôi là khốn cùng và thiếu thốn; Dầu vậy, Chúa tưởng đến tôi. Chúa là sự tiếp trợ tôi, và là Đấng giải cứu tôi. Đức Chúa Trời tôi ôi! xin chớ trễ hoãn" (
Thi thiên 40:17).
"Đấng gìn giữ Y-sơ-ra-ên Không hề nhắp mắt, cũng không buồn ngủ" (
Thi thiên 121:4).
"Đừng sợ, vì ta ở với ngươi; chớ kinh khiếp, vì ta là Đức Chúa Trời ngươi! Ta sẽ bổ sức cho ngươi; phải, ta sẽ giúp đỡ ngươi, lấy tay hữu công bình ta mà nâng đỡ ngươi" (
Êsai 41:10).
"Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, ta cũng sẽ bồng-ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi" (
Êsai 46:4).
2. Đức Chúa Trời đã cung ứng một chức năng rất đặc biệt cho cả ngày và đêm. Địa cầu xoay tròn và quay quanh quỹ đạo của nó trong không gian. Phải cần 24 giờ đồng hồ cho từng phần của địa cầu khi xoay quanh và đối diện với mặt trời. Khi một phần của địa cầu xoay quanh và đối diện với mặt trời, phần đó được gọi là ban ngày. Khi phần kia của địa cầu cách xa mặt trời, phần đó được gọi là ban đêm.
Mục đích là đây: mỗi phần (ngày và đêm) chạy theo bước chơn của phần kia, sự tiếp diễn của thời gian. Thời gian được phân biệt giữa ngày và đêm.
+ Ban ngày cung ứng ánh sáng để làm việc và để lo chu toàn chức năng của con người ở trên đất.
+ Ban đêm cung ứng bóng tối cho phần còn lại và làm mới lại sức lực.

Tư tưởng 1. Về mặt thuộc linh, có một sứ điệp cho chúng ta trong sự dựng nên ngày và đêm.
1) Ban ngày cho con người thấy có một khởi đầu mới, một ngày mới, một bắt đầu mới, một phát sinh mới.
+ Sự bắt đầu một ngày mới chỉ thẳng vào sự bắt đầu một đời mới. Chúng ta có thể khởi sự cuộc sống thật nhiều lần: chúng ta có thể được sanh lại và được làm mới lại về mặt thuộc linh. Chúng ta có thể trở thành một tạo vật mới, một người mới trong Đấng Christ.

"Đức Chúa Jêsus cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời. Ni-cô-đem thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Đức Chúa Trời" (Giăng 3:3-5).
"Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới" (
II Côrinhtô 5:17).
"và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật" (
Êphêsô 4:24).
"mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn" (
Côlôse 3:10).
"anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời" (
I Phierơ 1:23).
+ Sự bắt đầu một ngày mới, tỉnh giấc ngủ, chỉ thẳng vào sự sống lại của thân thể.

"Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, giờ đến, và đã đến rồi, khi những kẻ chết sẽ nghe tiếng của Con Đức Chúa Trời, và những kẻ nghe sẽ được sống" (Giăng 5:25).
"Đây là ý muốn của Cha ta, phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; còn ta, ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt" (
Giăng 6:40).
"Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi" (
Giăng 11:25).
"Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại" (
I Côrinhtô 15:22).
"vì biết rằng Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại, cũng sẽ làm cho chúng tôi sống lại với Đức Chúa Jêsus, và làm cho chúng tôi ứng hầu với anh em trước mặt Ngài" (
II Côrinhtô 4:14).
"Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết. Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn" (
I Têsalônica 4:16-17).
"Chớ lấy điều đó làm lạ; vì giờ đến, khi mọi người ở trong mồ mả nghe tiếng Ngài và ra khỏi: ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán" (
Giăng 5:28-29).
"và tôi có sự trông cậy nầy nơi Đức Chúa Trời, như chính họ cũng có vậy, tức là sẽ có sự sống lại của người công bình và không công bình" (
Công Vụ các Sứ Đồ 24:15).
"Nhưng Đức Chúa Trời sẽ chuộc linh hồn tôi khỏi quyền âm phủ, Vì Ngài sẽ tiếp rước tôi" (
Thi thiên 49:15).
"Chúa là Đấng đã cho chúng tôi thấy vô số gian truân đắng cay, Sẽ làm cho chúng tôi được sống lại, Và đem chúng tôi lên khỏi vực sâu của đất" (
Thi thiên 71:20).
"Nhiều kẻ ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, kẻ thì để được sự sống đời đời, kẻ thì để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời" (
Đaniên 12:2).
"Ta sẽ cứu chúng nó khỏi quyền lực của âm phủ, và chuộc chúng nó ra khỏi sự chết. Hỡi sự chết, nào tai vạ mầy ở đâu? Hỡi âm phủ, nào sự hủy hoại mầy ở đâu?” (
Ôsê 13:14).
2) Ban đêm cho thấy có một thời gian để ngưng và kết thúc sinh hoạt của một người và nằm nghỉ rồi đánh giá đời sống hàng ngày của họ. Sự việc nầy chỉ thẳng vào cứu cánh của cuộc sống khi có khoảng thời gian ngừng nghỉ của cuộc sống, một sự nghỉ ngơi của cơ thể con người, một thời khắc khi con người không thể lao động nữa, một thời khắc khi con người sẽ bị xét đoán vì cách thức người đã sống ở trên đất.

"Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta" (Rôma 6:23).
"Vả, chăm về xác thịt sanh ra sự chết, còn chăm về Thánh Linh sanh ra sự sống và bình an" (
Rôma 8:6).
"Họ sẽ bị hình phạt hư mất đời đời, xa cách mặt Chúa và sự vinh hiển của quyền phép Ngài" (
II Têsalônica 1:9).
"Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét" (
Hêbơrơ 9:27).
"Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi, Và số các ngày tôi là thể nào; Xin cho tôi biết mình mỏng mảnh là bao" (
Thi thiên 39:4).

Tư tưởng 2. Việc dựng nên ngày và đêm dạy dỗ hai bài học đầy thách thức:
1) Chúng ta cần phải làm việc cho Đức Chúa Trời lúc ban ngày.

"Trong khi còn ban ngày, ta phải làm trọn những việc của Đấng đã sai ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được" (Giăng 9:4).
"Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu" (
I Côrinhtô 15:58).
"Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta, vì biết rằng anh em sẽ bởi Chúa mà được cơ nghiệp làm phần thưởng. Hãy hầu việc Đấng Christ, tức là Chúa" (
Côlôse 3:23-24. Xem bố cục — Êphêsô 6:5-9 và chú thích — Êphêsô 6:5-9).
"Nếu các ngươi sẵn lòng vâng lời, sẽ ăn được sản vật tốt nhất của đất" (
Êsai 1:19).
"Ngươi hãy hầu việc Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; Ngài sẽ ban ơn cho vật ăn uống của ngươi và tiêu trừ các bịnh hoạn giữa vòng ngươi" (
Xuất Êdíptô ký 23:25).

2) Chúng ta cần phải nghỉ ngơi trong Đức Chúa Trời lúc ban đêm. Chúng ta cần phải suy gẫm Lời của Đức Chúa Trời ngày và đêm.

"Song lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va, Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm" (Thi thiên 1:2).
"Cầu Chúa làm cho tôi hiểu biết con đường giềng mối Chúa, Thì tôi sẽ suy gẫm các công việc lạ lùng của Chúa" (
Thi thiên 119:97).
"Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy" (
Phục truyền luật lệ ký 6:6-7).

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2011

Mathiơ 1:18-25: "Sự Ra Đời Của Chúa Jêsus"

(Dịch từ quyển The Preacher's Outline & Sermon Bible, thuộc Leadership Ministries WorldwidePO Box 21310, Chattanooga, TN 37424-0310, USA).
Sự ra đời của Chúa Jêsus
Mathiơ 1:18-25: “18Vả, sự giáng sinh của Đức Chúa Jêsus Christ đã xảy ra như vầy: Khi Ma-ri, mẹ Ngài, đã hứa gả cho Giô-sép, song chưa ăn ở cùng nhau, thì người đã chịu thai bởi Đức Thánh Linh. 19Giô-sép chồng người, là người có nghĩa, chẳng muốn cho người mang xấu, bèn toan đem để nhẹm. 20Song đang ngẫm nghĩ về việc ấy, thì thiên sứ của Chúa hiện đến cùng Giô-sép trong giấc chiêm bao, mà phán rằng: Hỡi Giô-sép, con cháu Đa-vít, ngươi chớ ngại lấy Ma-ri làm vợ, vì con mà người chịu thai đó là bởi Đức Thánh Linh. 21Người sẽ sanh một trai, ngươi khá đặt tên là Jêsus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội. 22Mọi việc đã xảy ra như vậy, để cho ứng nghiệm lời Chúa đã dùng đấng tiên tri mà phán rằng: 23Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. 24Khi Giô-sép thức dậy rồi, thì làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình; 25song không hề ăn ở với cho đến khi người sanh một trai, thì đặt tên là Jêsus”.







Bố Cục
B. Sự ra đời thiêng liêng của Chúa Jêsus: Các sự cố bất thường, 1:18-25Xem: NC1
(Luca 1:26-28; Luca 2:1-7)
1 Sự ra đời của Ngài là do Đức Thánh Linh (câu 18a)Xem: NC2
2 Sự ra đời của Ngài đã tạo ra một tình thế khó khăn (các câu 18b-19)
a. Nổi khó khăn của Giôsép: Mary đã có thai trước hôn nhân (câu 18b)Xem: NC3
b. Bản tánh và giải pháp của Giôsép (câu 19)
1) Bản tánh: Một người công nghĩa (câu 19a)
2) Giải pháp: không từ bỏ Mary (câu 19b)Xem: NC4
3 Sự ra đời của Ngài cần phải có một sự khải thị đặc biệt (các câu 20-21)
a. Để cung ứng sự bảo đảm (câu 20a-b)
1) Ông được chọn (câu 20a)
2) Ông không e sợ (câu 20b)
b. Để dẫn dắt: Trong việc lấy Mary làm vợ mình (câu 20c)
c. Để giải thích: Con trẻ thuộc về Đức Thánh Linh (câu 20d)
d. Để tỏ ra số phận của con trẻ (câu 21)
1) Tên của Ngài: Jêsus (câu 21a)Xem: NC5
2) Sứ mệnh của Ngài: Cứu rỗi (câu 21b)Xem: NC6
4 Sự ra đời của Ngài là sự ứng nghiệm lời tiên tri (các câu 22-23)Xem: NC7
a. Báo trước sự ra đời bởi nữ đồng trinh (câu 23a)Xem: NC8
b. Báo trước danh xưng của Ngài: Emmanuên (câu 23b)Xem: NC9
Sự ra đời của Ngài được hình thành là do một sự vâng phục rất lớn (các câu 24-25)

MATHIƠ: PHẦN I
SỰ RA ĐỜI VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA JÊSUS, ĐẤNG MÊSI
, 1:1-2:23
B. Sự ra đời thiêng liêng của Chúa Jêsus: Các sự cố bất thường, 1:18-25
(1:18-25) Phần giới thiệu: sự đến của Con Đức Chúa Trời trong thế gian là một trong những biến cố phi thường nhất trong toàn bộ lịch sử. Sự ra đời ấy cần phải có và tạo ra một số sự cố rất bất thường.
1. Sự ra đời của Ngài là do Đức Thánh Linh (câu 18).
2. Sự ra đời của Ngài tạo ra một tình thế khó khăn (các câu 18-19).
3. Sự ra đời của Ngài cần phải có một sự khải thị đặc biệt (các câu 20-21).
4. Sự ra đời của Ngài là sự ứng nghiệm lời tiên tri (các câu 22-23).
5. Sự ra đời của Ngài đã được hình thành do một sự vâng phục rất lớn (các câu 24-25).

NGHIÊN CỨU #1: (1:18-25) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự ra đời: Sự ra đời của Chúa Jêsus là một trong những biến cố gây chấn động và rối rắm nhất trong toàn bộ lịch sử (đối chiếu: Luca 2:1-24).
1. Có sự thai dựng của Mary — quan niệm cho rằng nàng là một người mẹ chưa kết hôn (
Mathiơ 1:18; Luca 1:26…). Ai trong thời buổi ấy dám tin câu chuyện của nàng? Đây là sự bằng lòng sẵn sàng với Đức Chúa Trời bất chấp sự ngượng ngùng và dư luận của gia đình, bạn hữu và láng giềng.
2. Có sự khám phá của Giôsép về tình trạng có thai của Mary (
Mathiơ 1:19). Cú sốc tin cậy bị tan vở nơi Mary và sự ngượng ngùng cá nhân khiến cho Giôsép khó mang nổi (Mathiơ 1:20). Ở đây là sự bằng lòng quên đi bản ngã một cách hoàn toàn.
3. Có con trẻ, là Con của chính Đức Chúa Trời, chào đời trong máng cỏ hôi hám (
Mathiơ 1:25; Luca 2:1…). Đây là sự bằng lòng hạ mình xuống.
4. Có gia đình sắp bị trừ tiệt và di chuyển sang một nước ngoại bang, là Aicập (Mathiơ 2:13…). Đây là sự bằng lòng vâng phục với bất cứ giá nào.
5. Có sự tàn sát con trẻ dưới 2 tuổi (
Mathiơ 2:16…). Gánh nặng cảm thấy một phần trách nhiệm nào đó đã buộc trên Giôsép và Mary. Đây là sự bằng lòng nơi phần của họ mang lấy trách nhiệm.
6. Có sự thăm viếng của mấy thầy bác sĩ cho thấy rằng quan hệ đối ngoại của các nước đã bị tác động (
Mathiơ 2:1…). Đây là sự bằng lòng mang lấy áp lực trách nhiệm và mọi đòi hỏi khi được chú trọng đến.
7. Có tiếng đồn nhà Hêrốt tác động khó chịu vào đời sống của cả Giôsép và Mary (
Mathiơ 2:7-8, 15-16, 22). Đây là sự bằng lòng đứng nghịch lại với mọi sự bất lợi.

1. (1:18) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự ra đời: Sự ra đời của Chúa Jêsus là do Đức Thánh Linh. Chưa hề có một người ra đời là "do Đức Thánh Linh" trước đây, trừ ra Chúa Jêsus. Người ta một là chấp nhận bằng chứng của Kinh thánh ở điểm nầy hoặc chối bỏ nó. Kinh thánh nói rõ ràng rằng: "song chưa ăn ở cùng nhau, thì người đã chịu thai bởi Đức Thánh Linh". Đây là vấn đề của đức tin và sự tin cậy nơi Đức Chúa Trời của sự yêu thương.
+ ai được tỏ ra trong Kinh thánh như đang chăm sóc cho con người với tình yêu trọn vẹn và đời đời.
+ ai muốn cứu con người ra khỏi tội lỗi của người (Mathiơ 1:21).
+ ai đã tạo ra biến cố long trọng nhất trong lịch sử con người: Đức Chúa Trời trở nên một với con người"Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta" (Mathiơ 1:23).
(Xem Nghiên Cứu #8 — Mathiơ 1:23; Nghiên Cứu #9 — Mathiơ 1:23 để thảo luận; đối chiếu Mathiơ 1:16; Mathiơ 1:18).

NGHIÊN CỨU #2 (1:18) Đấng Christ — Đấng Mêsi: từ ngữ nói tới "Christ""Messiah" là cùng một từ: christos. Messiah là từ Hybálai và Christ là từ Hylạp. Cả hai từ đều đề cập tới cùng một Thân Vị và nói tới cùng một việc: Đấng Chịu Xức Dầu. Đấng Mêsi là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời. Mathiơ nói rằng Jêsus "gọi là Christ" (Mathiơ 1:16); nghĩa là, Ngài được công nhận là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời, là chính Đấng Mêsi.
Trong thời của Đức Chúa Jêsus Christ, dân sự khao khát lắm về sự đến của Đấng Mêsi được hứa cho từ lâu. Gánh nặng của cuộc sống vốn nhọc nhằn, và bị bần cùng hóa. Dưới thời Lamã, dân sự cảm thấy rằng Đức Chúa Trời không thể đợi lâu hơn nữa khi phải chu toàn lời hứa của Ngài. Những sự khát khao như thế về sự giải cứu khiến cho người ta ra cả tin. Nhiều người chổi dậy xưng mình là Đấng Mêsi rồi dẫn dắt những môn đồ cả tin vào sự nổi loạn chống lại nhà cầm quyền Lamã. Kẻ nổi loạn, Baraba, là người được tha thay vào chỗ của Chúa Jêsus trong cuộc xét xử, là một trường hợp (
Mác 15:6…). (Xem chú thích — Mathiơ 1:1; Nghiên cứu #2 — Mathiơ 3:11; chú thích — Mathiơ 11:1-6; chú thích — Mathiơ 11:2-3; Nghiên cứu #1 — Mathiơ 11:5; Nghiên cứu #2 — Mathiơ 11:6; Nghiên cứu #1 — Mathiơ 12:16; chú thích — Mathiơ 22:42; chú thích — Luca 7:21-23).
Đấng Mêsi được tưởng đến trong vài sự việc:
1. Về mặt dân tộc, Ngài cần phải trở thành lãnh tụ xuất thân từ dòng dõi David, là người sẽ giải phóng nhà nước Do thái rồi lập nó như một nước độc lập, lãnh đạo nó trở thành một nước cường thịnh nhất mà thế gian từng nhìn biết.
2. Về mặt quân sự, Ngài cần phải trở thành một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, là người sẽ lãnh đạo quân đội Do thái đắc thắng trên khắp thế gian.
3. Về mặt tôn giáo, Ngài cần phải trở thành một nhân vật siêu nhiên đến từ Đức Chúa Trời, là người có thể đem lại sự công bình trên khắp đất.
4. Về mặt cá nhân, Ngài cần phải là Đấng sẽ đem lại hòa bình trên cả thế gian.

2. (1:18-19) Giôsép: Sự ra đời của Chúa Jêsus đã tạo ra một tình thế khó xử. Giôsép đã đối diện với nổi khó khăn trong cuộc đời của ông. Cụm từ "là người có nghĩa, chẳng muốn cho người mang xấu" chỉ ra một tinh thần bối rối trầm trọng. Giôsép đúng ra đã vò tay bức tóc giữa việc vâng theo luật pháp (vạch trần Mary với nhà cầm quyền) và tình yêu của ông dành cho nàng. Ông đã phấn đấu, vì ông bối rối, khó chịu, và thất vọng. Trí tưởng tượng của ông ra hoang dại. Ông cảm thấy mình bị lừa gạt, đang hồi ghen tuông và giận dữ. Mary đã trụy lạc nghịch lại ông. Tuy nhiên, ông quan tâm và yêu thương nàng thật sâu sắc. Ông không muốn Mary chịu tổn thương. Ông muốn ly dị cách thầm lặng và kín đáo. (Xem Nghiên Cứu #3, Hứa gã — Mathiơ 1:18; Nghiên Cứu #4, Tà dâm — Mathiơ 1:19).

Tư tưởng 1. Sự ra đời của Chúa Jêsus tạo ra tình trạng khó xử cho từng người một. Hãy tưởng tượng xem tình cảm và sự tổn thương mà Giôsép đã cảm nhận khi ông khám phá ra Mary, người hứa gã cho mình, đã có thai. Hãy tưởng tượng xem các tư tưởng đã tuôn tràn qua lý trí ông! Đúng là một tình thế khó xử mà sự ra đời của Chúa Jêsus đã tạo ra cho Giôsép! Sự ra đời của Chúa Jêsus tạo ra tình thế khó xử cho từng người, trong đó từng người giờ đây bị buộc phải đưa ra quyết định về Đấng Christ và về những lời xưng nhận của Ngài.

Tư tưởng 2. Chẳng có một chỗ nào dành cho việc ngồi lê đôi mách và phê phán giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời. Trong lý trí của Giôsép, tội lỗi của Mary rất là lớn. Nàng đã trụy lạc nghịch lại ông. Tuy nhiên, ông quan tâm và nhất mực yêu thương nàng. Đây đúng là thứ tình yêu đã giúp ông trong việc ông đối đãi với nàng: "vì sự yêu thương che đậy vô số tội lỗi" (I Phierơ 4:8). Người nào thực sự yêu thương không thể chỉ trích, phê phán hay xét đoán. Người nào yêu thương sẽ chẳng nói, chẳng ngồi lê đôi mách, hoặc chỉ trích. Người ấy sẽ ở riêng với Đức Chúa Trời và cầu nguyện về vấn đề — y như Giôsép đã làm vậy.
“Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét. Vì các ngươi đoán xét người ta thể nào, thì họ cũng đoán xét lại thể ấy; các ngươi lường cho người ta mực nào, thì họ cũng lường lại cho mực ấy. Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình? Sao ngươi dám nói với anh em rằng: Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh, mà chính ngươi có cây đà trong mắt mình?” (Mathiơ 7:1-4).
“Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng” (Galati 6:1).
“Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Êphêsô 4:32).
“Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục” (Côlôse 3:12).
“Nhất là trong vòng anh em phải có lòng yêu thương sốt sắng; vì sự yêu thương che đậy vô số tội lỗi” (I Phierơ 4:8).

NGHIÊN CỨU #3: (1:18) Hứa gã: có ba bước liên quan trong hôn nhân của người Do thái. (1) Sự hứa gã: cha mẹ thường quyết định con mình sẽ thành hôn với ai — thường ở độ tuổi rất sớm. (2) Hứa hôn: ở thời điểm quyết định hai người đồng ý hoặc không đồng ý với sự hứa hôn. Nếu họ vượt qua, sự hứa hôn ngay lập tức ràng buộc. Một sự ly dị hợp pháp sau đó mới bị đòi hỏi. Tình trạng hứa hôn kéo dài khoảng một năm. Khi Giôsép khám phá ra Mary đang có thai, họ đều đã hứa hôn với nhau rồi. (3) Hôn nhân: Đêm tân hôn của hai người diễn ra. Cần phải lưu ý rằng trong trường hợp của Giôsép đêm tân hôn không xảy ra cho tới sau khi Chúa Jêsus ra đời.
Tư tưởng 1. Những người tin Chúa không được mang ách so le với nhau. Giôsép là một người công nghĩa; Mary là một phụ nữ đức hạnh. Cả hai đều tin kính. Những người tin Chúa cần phải cẩn thận trong việc lựa chọn người bạn đời của họ để thành hôn:

"Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin" (II Côrinhtô 6:14).

Tư tưởng 2. Có sự khôn ngoan thực trong việc dành thời gian để khẳng định quyết định thành hôn của một người. Thà là chậm trễ và biết chắc còn hơn là vội vã rồi hối tiếc.

Tư tưởng 3. Một thời gian chờ đợi trước khi thành hôn là khôn ngoan. Thời gian ấy dâng cho Đức Chúa Trời thì giờ để nắn đúc hai người trở nên một về mặt thuộc linh — nhiều thời gian hơn một cuộc hôn nhân vội vã. Nó cũng có nhiều thời gian để hai người cùng nhau tấn tới trước khi thành hôn. Việc để ra thời gian tấn tới với nhau ngăn cản nhiều cơn đau đầu và nhiều đau khổ.

NGHIÊN CỨU #4: (1:19) Tà dâm — Luật pháp: luật pháp chép rằng một nữ đồng trinh đã hứa gã phạm tội tà dâm sẽ bị ném đá cho tới chết (Phục truyền luật lệ ký 22:23-24).

3. (1:20-21) Giôsép Con David: Sự ra đời của Chúa Jêsus cần phải có sự khải thị đặc biệt. Hãy chú ý cụm từ: "song đang ngẫm nghĩ về việc ấy". Giôsép đã làm đúng những gì ông cần làm: ông đã ở riêng với Đức Chúa Trời để suy nghĩ và cầu nguyện về tình huống khó xử ấy. Vì cớ sự nương cậy và vâng phục rất tin kính của ông, Đức Chúa Trời đã làm thỏa mãn nhu cần của ông. Đức Chúa Trời đã ban cho Giôsép một khải thị đặc biệt. Mục đích của Đức Chúa Trời có bốn phần:
1. Để cung ứng sự bảo đảm cho Giôsép. Khi thiên sứ gọi Giôsép "Con cháu David", Giôsép đã bị sốc. Ông đã thức tỉnh trước lời kêu gọi vinh hiển ấy. Ông đã được Đức Chúa Trời chọn là con của David để làm cha đời nầy của "Con Vua David", là Đấng Mêsi! Tất cả người Do thái đều biết rõ những lời tiên tri nói Đấng Mêsi phải thuộc về phỗ hệ của David. Giôsép vốn biết rõ chúng; nhưng chính mình ông nghe câu nói: "Hỡi Giôsép, con cháu David", điều nầy thôi thúc sự chú ý của ông và cảnh giác ông trước một sứ điệp cực kỳ quan trọng. Điều nầy chỉ ra một cấp độ nào đó của ơn kêu gọi thiêng liêng. Hãy nhớ: Giôsép chỉ là một gã thợ mộc hèn mọn.
2. Để hướng dẫn Giôsép.
3. Để giải thích tình huống khó xử.
4. Để tỏ ra số phận của con trẻ được hứa cho (xem Nghiên Cứu #5 — Mathiơ 1:21; Nghiên Cứu #6 — Mathiơ 1:21).

Tư tưởng 1. Có một phương thức chánh đáng để đương diện với những kinh nghiệm đau đầu. Giôsép đã tỏ ra phương thức chánh đáng ấy. Ông ở riêng và "ngẫm nghĩ về việc ấy" (Mathiơ 1:20). Là một người công nghĩa và tin kính, ông đã ở riêng với Đức Chúa Trời; ông chia sẽ sự suy nghĩ của mình với Đức Chúa Trời. Có lẽ ông đã bật khóc như một đứa trẻ dốc đổ linh hồn mình với Đức Chúa Trời. Những người tin Chúa thường bật khóc khi đối diện với những thử thách khủng khiếp.

"Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng" (Hêbơrơ 4:15-16).
"Ví bằng các ngươi cứ ở trong ta, và những lời ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó" (
Giăng 15:7).
"Trong anh em có ai chịu khổ chăng? Người ấy hãy cầu nguyện. Có ai vui mừng chăng? hãy hát ngợi khen" (
Giacơ 5:13).
"Người sẽ kêu cầu ta, ta sẽ đáp lời người; Trong sự gian truân, ta sẽ ở cùng người, Giải cứu người, và tôn vinh người" (
Thi thiên 91:15).
"Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói, ta đã nghe rồi" (
Êsai 65:24).
Tư tưởng 2. Có một phương thức thắng hơn tình trạng phê phán, đồn đại, và xét nét không tốt. Ấy là hãy làm theo những điều Giôsép đã làm: im lặng, và ở riêng với Đức Chúa Trời để bàn bạc vấn đề.

Tư tưởng 3. Đức Chúa Trời đã gặp gỡ Giôsép khi ông dành thì giờ ở riêng ra và suy gẫm. Bộ khung lý trí sẵn sàng rất cần thiết để lắng nghe và nhận lãnh sứ điệp của Đức Chúa Trời.

Tư tưởng 4. Người tin Chúa nào ở riêng với Đức Chúa Trời và suy gẫm qua những lần thử thách đương diện với người sẽ được gặp gỡ bởi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ cung ứng sự bảo đảm và sự hướng dẫn cho người tin Chúa (Mathiơ 6:33; Philíp 4:6-7; Giăng 16:13; Rôma 8:13; Hêbơrơ 13:5).

Tư tưởng 5. Một người cần phải nói "vâng" với ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời. Giôsép đã nhận lãnh ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời, và ông đã tiếp nhận ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời và sống vâng phục. Phần lớn người ta từ chối ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời.

"Nhiều người được gọi, nhưng có ít người được chọn" (Mathiơ 20:16).

Tư tưởng 6. Đại đa số những người được Đức Chúa Trời kêu gọi đều xuất thân từ chỗ khiêm hạ trong cuộc sống. Giôsép đã xuất thân từ một chỗ khiêm hạ trong cuộc sống, và cũng một thể ấy với Đấng Christ.

"Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng...." (I Côrinhtô 1:26-27).

Tư tưởng 7. Tên của Ngài là Jêsus. Đức Chúa Trời đã chọn tên của Ngài và căn dặn rằng Ngài sẽ được đặt bằng cái tên đó. Từng người sẽ nhìn biết và kêu cầu danh "Jêsus".

Tư tưởng 8. Sứ mệnh của Chúa Jêsus là cứu rỗi. Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài sứ mệnh, mục đích trong cuộc sống. Đức Chúa Trời ban cho sứ mệnh — mục đích cho đời sống của từng người nào nhìn xem Đức Chúa Trời giống như Chúa Jêsus đã nhìn xem.

"Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mathiơ 20:28).
" Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất" (
Luca 19:10).
"Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Bình an cho các ngươi! Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy" (
Giăng 20:21).
NGHIÊN CỨU #5 (1:21) Jêsus (iesous): Cứu Chúa; Ngài sẽ cứu rỗi. Hình thái Hybálai là Joshua (yasha), ý nói Đức Giêhôva là sự cứu rỗi; Ngài là Đấng Cứu Thế. Ý tưởng nói tới ơn giải cứu, hay được cứu ra khỏi tai vạ khủng khiếp dẫn tới chỗ hư mất (đối chiếu Giăng 3:16; Rôma 8:3; Galati 1:4; Hêbơrơ 2:14-18; 7:25).
NGHIÊN CỨU #6 (1:21) Ơn cứu rỗi — Đức Chúa Jêsus Christ, Sứ Mệnh: câu nói "Ngài sẽ cứu dân mình ra khỏi tội" có đầy đủ ý nghĩa. (Xem bố cục — Công Vụ các Sứ Đồ 2:37-40 và chú thích — Công Vụ các Sứ Đồ 2:37-40. Cũng xem Nghiên Cứu #1, Ơn cứu rỗi — Rôma 1:16 để thảo luận).
1. Từ ngữ save hay salvation có ý nói “giải cứu” (xem Nghiên cứu
#1 — I Côrinhtô 1:18). Chính Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Mêsi được hứa cho, Ngài cứu rỗi.
2. Cụm từ "dân Ngài" rất quan trọng. Nó ám chỉ rằng tất cả mọi người không phải là "dân Ngài".

"Nhưng các ngươi không tin ta, vì các ngươi chẳng phải là chiên của ta. Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta. Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta" (
Giăng 10:26-27).

3. Cụm từ "ra khỏi tội lỗi" ý nói rằng Đấng Christ cứu dân sự Ngài ra khỏi:
+ quyền lực của tội lỗi.
+ vòng nô lệ cho tội lỗi.
+ sự phạm tội.
+ Những hậu quả của tội lỗi. (Xem chú thích —
Galati 1:4-5; chú thích — Galati 4:4-7; chú thích — Hêbơrơ 2:14-18; chú thích — Hêbơrơ 7:25; chú thích — Tít 2:14).
Lưu ý:
Khải huyền 14:4 ở đây Đấng Christ được nói là chuộc những tín đồ "từ trong loài người [người thế gian]". Cũng hãy chú ý Hêbơrơ 7:26, ở đây Đấng Christ được nói "biệt khỏi kẻ có tội". Người tin Chúa được kêu gọi phải phân rẻ: phải sống cách biệt, sống trên và thắng hơn tội lỗi; chinh phục tội lỗi; sống đắc thắng đối với tội lỗi. (Đối chiếu II Côrinhtô 6:17-18; Rôma 12:2; I Giăng 2:15-16).

4. (1:22-23) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự ra đời: Sự ra đời của Chúa Jêsus là sự ứng nghiệm lời tiên tri (xem Nghiên Cứu #7 — Mathiơ 1:22; Phần giới thiệu, Mục đích). Đặc biệt Mathiơ nhấn mạnh hai lời tiên tri.
1. Có lời tiên tri nói trước sự ra đời bởi nữ đồng trinh của Ngài (xem Nghiên Cứu #8 — Mathiơ 1:23).
2. Có lời tiên tri nói trước danh của Ngài: Emmanuên (xem Nghiên Cứu #9 — Mathiơ 1:23).

NGHIÊN CỨU #7 (1:22) Lời tiên tri: yếu tố cơ bản của lời tiên tri đã được cung ứng ở đây. (1) Lời tiên tri là "Lời của Đức Giêhôva". Ấy chẳng phải là lời của loài người đâu. Tương lai được tỏ ra bởi Đức Chúa Trời, chớ không phải bởi con người. (2) Tiên tri chỉ là sứ giả thôi — chớ không phải phát ngôn viên. (3) Lời tiên tri phải được ứng nghiệm. Lời tiên tri luôn luôn được ứng nghiệm.
NGHIÊN CỨU #8 (1:23) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự ra đời — Con Đức Chúa Trời : chú ý bốn việc đáng tin về sự ra đời bởi nữ đồng trinh (parthenos ) của Đấng Christ (xem Nghiên Cứu #3 — Mathiơ 1:16; đối chiếu Êsai 7:14).
1. Hãy chú ý những đau đớn mà Mathiơ đang chỉ ra từ chỗ ra đời siêu nhiên của Chúa Jêsus. Ông nhấn mạnh: "Vả, sự giáng sinh của Đức Chúa Jêsus Christ [không những Jêsus, mà còn là Đức Chúa Jêsus Christ, Đấng Mêsi] đã xảy ra như vầy".
a. "Mary...chịu thai bởi Đức Thánh Linh" (
Mathiơ 1:18).
b. "Vì con mà người chịu thai đó là bởi Đức Thánh Linh" (
Mathiơ 1:20).
c. "Mọi việc đã xảy ra như vậy, để cho ứng nghiệm....'Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai" (
Mathiơ 1:22-23).
d. "Rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Emmanuên...Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta" (
Mathiơ 1:23).
Mathiơ không chú trọng lắm vào việc cung ứng một câu chuyện chi tiết nói tới sự ra đời của Chúa Jêsus. Mối quan tâm của ông là lôi kéo sự chú ý của độc giả vào hai sự kiện quan trọng.
Thứ nhứt, những lời tiên tri trong Cựu Ước nói tới sự ra đời của Đấng Mêsi đều được ứng nghiệm nơi Đức Chúa Jêsus Christ.
Thứ hai, người Do thái cần phải biết rằng Đức Chúa Jêsus Christ do một nữ đồng trinh sanh ra, đặc biệt những ai hiểu sai những lời tiên tri trong Cựu Ước và những ai không trông mong Đấng Mêsi được nữ đồng trinh sanh ra. Một trong những tường trình có tính phỉ báng đối diện với các Cơ đốc nhân đầu tiên, ấy là Chúa Jêsus là người bị đẻ hoang.

"Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên" (
Êsai 7:14).
"Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an" (
Êsai 9:5).
"Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là JÊSUS" (
Luca 1:31).
"Người sanh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc con mình, đặt nằm trong máng cỏ, vì nhà quán không có đủ chỗ ở" (
Luca 2:7).
"Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha" (
Giăng 1:14).
"Vì điều chi luật pháp không làm nổi, tại xác thịt làm cho luật pháp ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì cớ tội lỗi sai chính Con mình lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi chúng ta, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt" (
Rôma 8:3).
"Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài" (
Galati 4:4-5).
"Ngài [Jesus Christ]vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người" (
Philíp 2:6-7).
"Bởi điều nầy, hãy nhận biết Thánh Linh của Đức Chúa Trời: phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời" (
1 Giăng 4:2).

2. Hãy chú ý lời xưng nhận đơn sơ của Mary tỏ ra bị sốc và sự kinh ngạc: "Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó? " (
Luca 1:34).
3. Hãy chú ý lẽ mầu nhiệm của sự sống mà con người biết rất ít về nó.

"Người không biết đường của gió đi, cũng không biết xương cốt kết cấu trong bụng đờn bà mang thai thể nào, thì cũng một thể ấy, ngươi chẳng hiểu biết công việc của Đức Chúa Trời, là Đấng làm nên muôn vật" (
Truyền đạo 11:5).
"Vì chính Chúa nắn nên tâm thần tôi, Dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi. Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm. Khi tôi được dựng nên trong nơi kín, Chịu nắn nên cách xảo lại nơi thấp của đất, Thì các xương cốt tôi không giấu được Chúa" (
Thi thiên 139:13-15).

4. Hãy chú ý lẽ mầu nhiệm của sự tin kính.

"Mọi người đều cho sự mầu nhiệm của sự tin kính là lớn lắm: Đức Chúa Trời đã được tỏ ra trong xác thịt" (
I Timôthê 3:16; đối chiếu Galati 4:4; 1 Giăng 1:1-3; Giăng 1:14).
"Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó,...Vì quả thật không phải Ngài đến vùa giúp các thiên sứ, bèn là vùa giúp dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhân đó, Ngài phải chịu làm giống như anh em mình trong mọi sự" (
Hêbơrơ 2:14-17).
"Đấng Christ … Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời,… lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người" (
Philíp 2:5-7).
"Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ...." (
II Côrinhtô 5:19).
"Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi?" (
Giăng 14:9).
"Người Giu-đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời" (
Giăng 10:33).






NGHIÊN CỨU #9 (1:23) Chúa Jêsus — Emmanuên — Con Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời ở với chúng ta. Ngài là Đức Chúa Trời tỏ ra trong xác thịt con người. Từ ngữ "Emmanuên" không phải là một danh xưng hay tước hiệu. Đây là một thuật ngữ có tính mô tả. Nó đánh dấu một nhân vật. Chúa Jêsus là Emmanuên: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta, Đức Chúa Trời tỏ ra trong xác thịt con người (đối chiếu Êsai 1:26; 9:5; Giăng 1:1, 14; II Côrinhtô 5:19; I Giăng 1:2).

5. (1:24-25) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự ra đời — Sự thương xót: Sự ra đời của Chúa Jêsus được hình thành là do một sự vâng phục rất lớn. Thật đơn giản, Giôsép đã vâng theo Đức Chúa Trời. Bất chấp tình huống khó xử — bất chấp mọi việc đang bày ra — Giôsép đã vâng theo. Ông đã làm theo chính xác những điều Đức Chúa Trời phán dạy. Hãy tưởng tượng sự thể khó khăn là dường nào! Mary đã có thai, tuy nhiên họ không thành hôn. Có bao nhiêu chuyện ngồi lê đôi mách ở đó? Những người hàng xóm, họ nghĩ gì? Giôsép và Mary đã nói gì với họ? Liệu người ta có tin câu chuyện nói tới thiên sứ và sự ra đời bởi nữ đồng trinh từ hai người mà họ vốn biết rõ không? Đúng là một tình huống! Dầu vậy, Giôsép đã làm theo chính xác y như Đức Chúa Trời đã phán dạy — bất chấp mọi sự. Đúng là một bài học cho sự vâng phục lớn lao nơi phần của từng người tin Chúa!

"Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy là kẻ yêu mến ta; người nào yêu mến ta sẽ được Cha ta yêu lại, ta cũng sẽ yêu người, và tỏ cho người biết ta" (Giăng 14:21).
"Nếu các ngươi vâng giữ các điều răn của ta, thì sẽ ở trong sự yêu thương ta, cũng như chính ta đã vâng giữ các điều răn của Cha ta, và cứ ở trong sự yêu thương Ngài .... Ví thử các ngươi làm theo điều ta dạy, thì các ngươi là bạn hữu ta" (Giăng 15:10, 14).
"Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu" (Hêbơrơ 5:8).

Tư tưởng 1. Giôsép đã hành động y như Đức Chúa Trời muốn con người phải hành động.
1) Ông tỏ lòng thương xót, nhơn từ và dịu dàng đối với người nào làm tổn thương ông rất nhiều.
2) Ông đã tha thứ như một người đã được tha thứ. Ông đã có thái độ mà người tin Chúa có cần khi một người yêu thương hay một tín hữu được tìm gặp trong tội lỗi.

"Hỡi anh em, ví bằng có người nào tình cờ phạm lỗi gì, anh em là kẻ có Đức Thánh Linh, hãy lấy lòng mềm mại mà sửa họ lại; chính mình anh em lại phải giữ, e cũng bị dỗ dành chăng" (Galati 6:1).
"phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chìu nhau" (Êphêsô 4:2).
"Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy" (Êphêsô 4:32).