Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Mathiơ 4:23-25: "Một Chức Vụ Thành Công"


Mathiơ 4:23-25:Đức Chúa Jêsus đi khắp xứ Ga-li-lê, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng Tin Lành của nước Đức Chúa Trời và chữa lành mọi thứ tật bịnh trong dân. Vậy, danh tiếng Ngài đồn ra khắp cả xứ Sy-ri, người ta bèn đem cho Ngài mọi người đau ốm, hay là mắc bịnh nọ tật kia, những kẻ bị quỉ ám, điên cuồng, bại xuội, thì Ngài chữa cho họ được lành cả. Vả lại, từ xứ Ga-li-lê, xứ Đê-ca-bô-lơ, thành Giê-ru-sa-lem, xứ Giu-đê, cho đến xứ bên kia sông Giô-đanh, thiên hạ kéo nhau rất đông mà theo Ngài”.

MATHIƠ: PHẦN III
BẮT ĐẦU CHỨC VỤ CỦA ĐẤNG MÊSI, 4:12-25

(4:23-25) Chức vụ: một chức vụ thành công là một chức vụ noi theo những dấu chơn của Chúa. Phân đoạn nầy tỏ ra cả hai: những điều Chúa đã làm và kết quả của những điều Ngài đã làm. Mọi hoạt động của Ngài đề ra một khuôn mẫu cho từng tín đồ, mục sư và nhân sự y như nhau.

1. (4:23) Bầu không khí sinh hoạt của Chúa Jêsus: nơi Chúa Jêsus phục vụ. Ba việc cần phải nói về nơi mà Chúa Jêsus phục vụ.
1.  Ngài đi khắp xứ Galilê. Ngài đi toàn bộ khu vực mà Ngài đề ra để đến đó, khu vực (phải nói như thế) đã được ấn định cho Ngài. Từng được giao cho một khu vực, Ngài chịu trách nhiệm và trung tín lo phục vụ với khu vực đó. (Đúng là một bài học cho các tín đồ về sự đầu phục, chỉ định, và trách nhiệm).
2.  Ngài đến đó thì đã có một số khán thính giả sẵn sàng rồi. Ngài đến đó người ta sẽ tiếp nhận và lắng nghe Ngài, nghĩa là, trong nhà hội (xem Nghiên Cứu #2 — Mathiơ 4:23).
3.  Ngài đến đó dạy dỗ, giảng đạo, tại nhà hội. (Ngài không dạy dỗ cách độc quyền tại nhà hội, nhưng đây là một trong những địa điểm chính của chức vụ Ngài).

Tư tưởng 1. Từng tín đồ sẽ có cùng một sự việc nói về mình giống như việc đã nói về Chúa Jêsus: rằng người đi ra y như Đức Chúa Trời đã truyền cho Ngài.

"Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người”  (Mathiơ 20:28).
"Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất" (Luca 19:10).
"Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Bình an cho các ngươi! Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy" (Giăng 20:21).

Tư tưởng 2. Hãy chú ý điểm quan trọng: Chúa Jêsus noi theo hình thức phục vụ đã được lập sẵn rồi. Ngài không tìm cách thay đổi thể chế, cũng không về mặt tổ chức. Ngài cứ theo sứ mệnh, và Ngài phải có số khán thính giả chịu lắng nghe (xem chú thích 2 — Mathiơ 4:23). Ngài từ chối không để bị lạc lối bởi các vấn đề phụ sẽ tạo ra sự thay đổi và làm cho dân sự phải bối rối. Các vấn đề phụ chỉ làm giảm thiểu sự giảng dạy và phục vụ của Ngài mà thôi.

NGHIÊN CỨU #1 (4:23) Xứ Galilê: xem chú thích — Mathiơ 4:12
NGHIÊN CỨU #2 (4:23) Nhà Hội: nhà hội là thể chế quan trọng nhất trong đời sống của một người Do thái. Đây là trung tâm thờ phượng dành cho người Do thái, tuy nhiên đó cũng là trung tâm nghiên cứu và giáo dục. Các buổi thờ phượng và bàn luận được tổ chức mỗi ngày trong hầu hết các nhà hội. Bất cứ đâu người Do thái bị tan rãi trên thế giới, từng nơi một, bất luận lớn nhỏ ra sao, đều có nhà hội của họ.
            Một số thành phố có nhiều nhà hội. Jerusalem là một trường hợp: ước tính rằng có hàng trăm nhà hội trong thành phố. Năm nhà hội được nhắc tới ở Công Vụ các Sứ Đồ 6:9. Một buổi thờ phượng ở nhà hội bao gồm cầu nguyện, đọc Kinh thánh, diễn thuyết hay bàn luận. Những nhân vật đặc biệt, dù ở địa phương hay khách lạ, đều được mời để dự phần trong buổi thờ phượng; vì lẽ đó, cánh cửa của nhà hội luôn rộng mở cho Đấng Christ (đối chiếu Luca 4:16…). Sử dụng nhà hội là một phần trong chiến lược của Ngài (đối chiếu Galati 4:4. Xem Nghiên Cứu #1 — Mác 1:21; Nghiên Cứu #2 — Mác 1:21). Đấy cũng là chiến lược của Phaolô khi các nhà hội mở cửa cho ông (đối chiếu Công Vụ các Sứ Đồ 9:20; 13:5, 14; 14:1; 17:1, 10; 18:4, 19; 19:8).

2. (4:23) Sinh hoạt hàng ngày của Chúa Jêsus: Ba sinh hoạt của Chúa Jêsus là dạy dỗ, giảng đạo, và chữa lành. Ba sinh hoạt được trình bày rất đơn sơ, nhưng quan trọng trong ý nghĩa của chúng.
Hãy chú ý có một sự tập trung sinh hoạt trong phân đoạn nầy, một sự oanh tạc về chức vụ. Chúa Jêsus được phác họa như đang nắm quyền chủ động như Ngài có thể, phục vụ và làm thỏa mãn các nhu cần của dân sự với tinh thần đầu phục và không mệt mõi. Các nhu cần của dân sự đã được thỏa với sự quan tâm thật đặc biệt, và chúng đã được thỏa cách nhanh chóng trong một nổ lực rất lớn.
Các nhu cần quan trọng của con người có ba phần: (1) nghe giảng Tin Lành (euaggelion PWS: 1766); (2) được dạy dỗ bằng Tin Lành; và (3) được chữa lành theo cách riêng. Đức Chúa Jêsus Christ vốn biết rõ người bề trong, nó thiếu thốn và cần điều gì, điều chi khiến cho con người phải kêu la. Vì lẽ đó, mọi sinh hoạt của Ngài đều nhắm vào người bề trong của con người, nhơn đó làm thỏa mãn nhu cần của con người.
+  Đức Chúa Jêsus Christ rao giảng Tin Lành. Có hy vọng — hy vọng về một nước đời đời, một thiên đàng đời đời, một chiều kích hoàn toàn mới để sống đời đời.
+  Đức Chúa Jêsus Christ dạy dỗ các lẽ thật vinh hiển của Tin Lành. Con người có thể hy vọng nơi Tin Lành và được chữa lành; nghĩa là, họ sẽ được giải cứu ra khỏi mọi tình trạng nô lệ của đời nầy (Rôma 8:1…; Hêbơrơ 2:14-15).

Tư tưởng 1. Các tôi tớ của Đức Chúa Trời cần phải dấn thân vào cùng những sinh hoạt hàng ngày y như Chúa: dạy dỗ, giảng đạo, và chữa lành. Đấy là sự kêu gọi và là sứ mệnh của họ. Có nhiều phương tiện truyền đạt: bài giảng, bàn luận, sự tin kính, thuyết giảng, bài học và sách vỡ. Tuy nhiên, dầu chúng rất là có cần đấy, chúng không phải là sự kêu gọi chính cho dân sự của Đức Chúa Trời. Dân sự của Đức Chúa Trời được kêu gọi để giảng dạy và chữa lành.

"Khi đi đường, hãy rao giảng rằng: Nước thiên đàng gần rồi. Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ. Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không" (Mathiơ 10:7-8).
"Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế" (Mathiơ 28:19-20; đối chiếu Mác 16:15).

Tư tưởng 2. Sự thương xót của Đức Chúa Trời được đổ ra trong phân đoạn nầy — đổ ra trên dân sự qua sự giảng dạy và chữa lành. Các tín hữu giờ đây là công cụ thương xót của Đức Chúa Trời. Sự thương xót của Đức Chúa Trời phải được đổ ra trên hết thảy mọi người nào chịu nhận lãnh ơn ấy — qua sự giảng đạo, dạy dỗ và chữa lành.

"Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi. Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh Đấng Christ mà nài xin anh em: hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời" (II Côrinhtô 5:19-20).

Tư tưởng 3. Công tác của Đấng Christ là ủy nhiệm thư của Ngài, minh chứng rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Công việc của người tín đồ là ủy nhiệm thư của người. Chỉ rao giảng thôi, rao giảng mà không có việc làm, là vô ích. Một tôi tớ phải phục vụ.

"Nhưng ta có một chứng lớn hơn chứng của Giăng; vì các việc Cha đã giao cho ta làm trọn, tức là các việc ta làm đó, làm chứng cho ta rằng Cha đã sai ta" (Giăng 5:36).
"Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình" (Giacơ 1:22).
"Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết" (Giacơ 2:14-17).

NGHIÊN CỨU #3  (4:23) Tin lành — Nước Trời: Tin Lành là Nước Trời, và các tin tức nói tới Nước là những tin tức quan trọng nhất từng đến với trần gian (xem Nghiên Cứu #1 —I Côrinhtô 15:1-11; chú thích — Rôma 1:1-4; chú thích 4 — Rôma 1:5Nghiên Cứu #2 — Rôma 1:5). Nước Trời trỗi hơn các nước đời nầy trong hai phương thức.
1. Nước Trời là đời đời. Đây không phải là nước theo phần thuộc thể và hay hư nát, kéo dài chỉ trong một khoảng thời gian đâu. Đây là một thế giới khác theo chiều kích của linh hồn, một chiều kích hoàn toàn khác biệt với thế giới vật lý. Nó kéo dài cho đến đời đời và đời đời. Điều nầy quả có ý nói với con người rằng sự sống là sự sống đời đời. Đây là sự sống tiếp diễn cho đến đời đời và đời đời, nhưng trong một chiều kích thường trực, không hay hư nát, đời đời.
2.  Nước Trời đem lại sự giàu có và bảo đảm cho linh hồn con người cho đến đời đời. Con người có thể được phước bởi chính mình Đức Chúa Trời và sống cho đến đời đời trong các ơn phước đó. (Xem Nghiên Cứu #3 — Mathiơ 19:23-24; chú thích — Êphêsô 1:3 để thảo luận).

3. (4:24) Đức Chúa Jêsus Christ, Chức vụ: Tiếng tăm của Chúa Jêsus đồn khắp xứ Syri (xem Nghiên Cứu #4, Syri — Mathiơ 4:24). Người ta ở khắp mọi nơi đều cần đến Đấng Christ. Không có một người nào mà chẳng cần đến Ngài, vì vậy trong sự tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài nhìn thấy điều đó, nên nỗi các tin tức về Con của Ngài được đồn đại khắp mọi nơi. (Xem chú thích 4 — Mathiơ 4:24).

"vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời" (Rôma 3:23; đối chiếu Rôma  6:23).
"Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu; vì tin bởi trong lòng mà được sự công bình, còn bởi miệng làm chứng mà được sự cứu rỗi" (Rôma 10:9-10).
"Ấy là một sự lành và đẹp mắt Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật. Vì chỉ có một Đức Chúa Trời, và chỉ có một Đấng Trung bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, là người; Ngài đã phó chính mình Ngài làm giá chuộc mọi người. Ấy là lời chứng đã làm đúng kỳ" (I Timôthê 2:3-6).

Tư tưởng 1. Giờ đây, các tín đồ cần phải cưu mang sứ điệp nói tới Đấng Christ đi khắp mọi nơi. Thế gian (phải nói như thế) nhóm lại với Đấng Christ, nhưng các tín đồ cần được truyền cho phải đi khắp thế gian và mang theo Tin Lành nói tới Nước Trời với họ (xem chú thích, phần 4 — Công Vụ các Sứ Đồ 8:1).

"Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất" (Công Vụ các Sứ Đồ 1:8).
"Những điều con đã nghe nơi ta ở trước mặt nhiều người chứng, hãy giao phó cho mấy người trung thành, cũng có tài dạy dỗ kẻ khác" (II Timôthê 2:2).
"nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ" (I Phierơ 3:15).

NGHIÊN CỨU #4  (4:24) Syri: đây là một tỉnh lớn của người Lamã, trong đó Palestine là một phần. Người ta từ khắp xứ Syri sẽ đến để nhìn xem Chúa Jêsus. Các thành phố chính của nó là Đamách, Antiốt, Byblos, Aleppo, Palmyra, và Carchemish. Bắt đầu với số người nhóm lại để nghe Đấng Christ rao giảng, Syri trở nên nổi bật trong lịch sử của Hội thánh đầu tiên. Phaolô đã trở lại đạo trên con đường đến thành Đamách, và hội thánh dân Ngoại đầu tiên rất lớn được đặt tại thành Antiốt. Chính ở Hội thánh Antiốt đã sai phái các giáo sĩ đầu tiên trong lịch sử Cơ đốc và cung ứng danh Cơ đốc nhân cho các tín đồ vào thời buổi đầu tiên (đối chiếu Công Vụ các Sứ Đồ 11:26).


4. (4:24) Chữa lành — Các phép lạ: Quyền phép của Chúa Jêsus là một quyền phép rất lớn lao và vinh hiển. Kinh thánh chép Chúa Jêsus đã chữa lành "mọi thứ tật bệnh trong dân" (Mathiơ 4:23)"bịnh nọ tật kia" (Mathiơ 4:24). Tuy nhiên, chỉ có ba sự chữa lành đặc biệt được ghi ra. Ba lần đặc biệt nầy làm biểu tượng cho quyền phép của Đấng Christ trên toàn bọ con người và trên toàn bộ vũ trụ.
+ Có sự chữa lành thuộc linh: "Những kẻ bị quỉ ám".
+ Có sự chữa lành lý trí: "Những kẻ điên".
+ Có sự chữa lành theo phần xác: "Những kẻ bị bịnh phung".
Mục tiêu là đây: Đức Chúa Jêsus Christ có quyền phép trên toàn bộ vũ trụ vật lý. Ngài có quyền trên tất cả các nan đề đang bắt lấy con người: tất cả các nan đề về thuộc linh, về lý trí và về thể xác.

Tư tưởng 1. Phân đoạn nầy là một bức tranh xinh đẹp nói tới Đấng Christ, Vị Y Sĩ Đại Tài. Tất cả các tín đồ phải là những y sĩ, và hết thảy phải nhắm vào chức vụ chữa lành linh hồn, tâm trí, và thân thể của con người.

"Đức Chúa Jêsus nghe điều đó, bèn phán rằng: Chẳng phải là người khỏe mạnh cần thầy thuốc đâu, song là người có bịnh. Hãy đi, và học cho biết câu nầy nghĩa là gì: Ta muốn sự thương xót, nhưng chẳng muốn của lễ. Vì ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội" (Mathiơ 9:12-13).
"Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người" (Mathiơ 20:28).
"Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Bình an cho các ngươi! Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy" (Giăng 20:21).

5. (4:25) Đức Chúa Jêsus Christ, Cái chạm: Theo Chúa Jêsus rất đông. Câu nầy đang nhấn mạnh hai điểm: (1) các đoàn dân đông đủ mọi hạng người bắt đầu đi theo Chúa Jêsus, và (2) họ đến từ khắp mọi nơi — từ chỗ xa nhất đến tỉnh lớn nhất là Syri.

"Song Đức Chúa Jêsus biết điều ấy, thì bỏ đi khỏi chỗ đó; có nhiều người theo, và Ngài chữa lành cả" (Mathiơ 12:15; đối chiếu Mathiơ 8:1).
"Đoàn dân nhóm họp xung quanh Ngài đông lắm, đến nỗi Ngài phải xuống thuyền mà ngồi, còn cả đoàn dân đứng trên bờ" (Mathiơ 13:2).
"Bấy giờ có đoàn dân rất đông đến gần Ngài, đem theo những kẻ què, đui, câm, tàn tật và nhiều kẻ đau khác, để dưới chân Đức Chúa Jêsus, thì Ngài chữa cho họ được lành" (Mathiơ 15:30; đối chiếu Mathiơ 19:2).

Tư tưởng 1. Những đoàn dân đông ở đâu ngày nay? Sau hai ngàn năm, tại sao các nước không dấy lên như Israel đã dấy lên bởi sự hiện diện của Đấng Christ?
1) Có phải người ta không còn khao khát Đức Chúa Trời nữa chăng? Có phải đồng ruộng không còn vàng sẵn cho mùa gặt chăng?

"Song ta nói với các ngươi: Hãy nhướng mắt lên và xem đồng ruộng, đã vàng sẵn cho mùa gặt" (Giăng 4:35).

2) Có phải những nhà truyền đạo không tìm kiếm Đức Chúa Trời nhiều như Đấng Christ đã tìm kiếm chăng?

"Sáng hôm sau trời còn mờ mờ, Ngài chờ dậy, bước ra, đi vào nơi vắng vẻ, và cầu nguyện tại đó" (Mác 1:35).
"Ngài lìa khỏi chúng rồi, thì lên núi mà cầu nguyện" (Mác 6:46).
"Song Ngài lánh đi nơi đồng vắng mà cầu nguyện" (Luca 5:16; đối chiếu Luca 9:18).
"Ngài bèn đi khỏi các môn đồ, cách chừng liệng một cục đá, quì xuống mà cầu nguyện" (Luca 22:41).

3) Có phải các nhà truyền đạo không biết thương xót và quan tâm giống như Đấng Christ chăng?

"Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn" (Mathiơ 9:36).
"Ngài ở thuyền bước lên, thấy đoàn dân đông đúc, động lòng thương xót, mà chữa cho kẻ bịnh được lành" (Mathiơ 14:14).
"Hễ khi dân Ngài bị khốn khổ, chính Ngài cũng khốn khổ, và thiên sứ trước mặt Ngài đã cứu họ rồi. Chính Ngài đã lấy lòng yêu đang thương xót mà chuộc họ. Ngài đã ẵm bồng, và mang họ trong các ngày thuở xưa" (Êsai 63:9).









Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

Sáng thế ký 1:1 - 2:3: "Dựng nên một ngày để yên nghỉ và thờ phượng"


Sáng thế ký 2:1-3: Ấy vậy, trời đất và muôn vật đã dựng nên xong rồi. Ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời làm xong các công việc Ngài đã làm, và ngày thứ bảy, Ngài nghỉ các công việc Ngài đã làm. Rồi, Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó, Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi”.

BỐ CỤC:

SÁNG THẾ KÝ:  PHẦN I
SỰ DỰNG NÊN CÁC TỪNG TRỜI VÀ ĐẤT, 1:1-2:3

J. Ngày thứ bảy: Dựng nên một ngày để yên nghỉ và thờ phượng, 2:1-3
(2:1-3) Phần giới thiệu: Hãy nhớ đất hình thù ra sao khi Đức Chúa Trời treo nó trong khoảng không không. Địa cầu chưa có hình thù rõ ràng, chưa phát triển và chưa hoàn tất. Chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo là dựng nên thế gian bằng nhiều chặng. Có 7 ngày quan trọng trong sự sáng tạo. Treo ở đó trong không gian, toàn bộ địa cầu bị bao phủ với một đại dương nước. Những làn sóng náo động — các đại dương gầm thét — bao phủ địa cầu trong lúc nguyên sinh. Cũng có lớp sương mù dày đặc treo trên cả đất: một lớp sương mù và mây dày đặc dấy lên chừng vài ngàn feet bao phủ lấy cả đất. Mặt trời — mọi thứ ánh sáng — đều bị khóa không đến được mặt đất. Địa cầu bị bao trùm bởi một tấm mền tối tăm đen kịt.
Nhưng Đức Chúa Trời có một chương trình vĩ đại hầu cứu vớt tình trạng, một chương trình sẽ dựng nên địa cầu bằng nhiều chặng, trong đó chúng ta biết là Bảy Ngày Sáng Tạo. Chúng ta đã xem qua rồi sáu ngày đầu tiên.
+ Vào ngày thứ nhứt: Đức Chúa Trời dựng nên sự sáng (Sáng thế ký 1:3-5).
+ Vào ngày thứ hai: Đức Chúa Trời dựng nên khoảng không (bầu khí quyển và khoảng không gian bên trên địa cầu) (Sáng thế ký 1:6-8).
+ Vào ngày thứ ba: Đức Chúa Trời dựng nên các đại dương, đất khô, và rau cỏ (Sáng thế ký 1:9-13).
+ Vào ngày thứ tư: Đức Chúa Trời phân phát ánh sáng trên địa cầu dựng nên ngày và đêm, mùa và năm (Sáng thế ký 1:14-19).
+ Vào ngày thứ năm: Đức Chúa Trời dựng nên biển và các tạo vật bay trên không (Sáng thế ký 1:20-23).
+ Vào ngày thứ bảy, trong nửa phần đầu của ngày: Đức Chúa Trời dựng nên đất cà các loài động vật (Sáng thế ký 1:24-25).
+ Vào ngày thứ sáu, trong nửa sau của ngày nầy: Đức Chúa Trời dựng nên con người, người nam và người nữ (Sáng thế ký 1:26-31).
Bây giờ, dành cho một thắc mắc cụ thể: tại sao Đức Chúa Trời lại chọn dựng nên thế gian bằng nhiều chặng, trong bảy ngày, thay vì chỉ dựng nên mọi sự cùng một lúc? Ngày thứ bảy của sự sáng tạo cho chúng ta biết.
+ Đức Chúa Trời dự trù cho con người phải đếm thời gian bằng ngày và tuần. Và Ngài dự trù cho con người phải lấy một ngày trong một tuần, ngày thứ bảy, để nghỉ ngơi và thờ phượng.
Vì lẽ đó, Đức Chúa Trời đã mở ra thời gian, Ngài bắt đầu thời gian, cùng với các hành động sáng tạo của Ngài. Mọi sinh hoạt của đất cần phải tính bằng ngày và tuần, và con người cần phải lấy một trong bảy ngày, ngày thứ bảy, để nghỉ ngơi và thờ phượng. Đây là lý do Đức Chúa Trời không dựng nên thế gian trong khoảnh khắc của thời gian; đây là một trong những lý do tại sao Đức Chúa Trời đã dựng nên địa cầu bằng nhiều chặng, trong bảy ngày.
Giờ đây, chúng ta đến với ngày sau cùng của công cuộc sáng tạo: "Ngày Thứ Bảy: Dựng Nên Một Ngày Để Nghỉ Ngơi Hay Thờ Phượng".

1. (2:1) Sự sáng tạo — Trời — Đất: Đức Chúa Trời đã hoàn tất việc sáng tạo trời và đất. Bản Hybálai đọc: "Các từng trời và đất đã làm xong". Từ ngữ “xong rồi” được nhấn mạnh: sự sáng tạo đã hoàn tất; giờ đây Đức Chúa Trời đã hoàn tất chương trình sáng tạo của Ngài. Từ ngữ “xong rồi” ý nói cả hai: đã hoàn tất và đã trọn vẹn. Sự sáng tạo giờ đây đã hoàn tất và sản phẩm rất trọn vẹn.
Vũ trụ đã khi sự như một ý tưởng trong tâm trí của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã đề ra, rồi đưa ý tưởng của Ngài về thế gian thành hiện thực. Ngài đã dựng nên nó từng bước một.
+ Giờ đây Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi yếu tố cơ bản của vũ trụ — tất cả những nguyên tử, protons, neutrons, và electrons, bất cứ chất liệu cơ bản nào dựng nên vật chất — Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi thứ vật chất và năng lượng trong vũ trụ. Sự dựng nên vật chất và năng lượng cả hai đều hoàn tất và trọn vẹn.
+ Giờ đây Đức Chúa Trời đã tổ chức mọi vật chất và năng lượng để hình thành trời và đất. Sự sắp đặt và tổ chức giờ đây đã xong rồi.
+ Giờ đây Đức Chúa Trời đã dựng nên muôn vật cần thiết để duy trì sự sống ở trên đất. Sự sáng, khoảng không, biển, đất khô, rau cỏ, ngày và đêm, mùa và năm hết thảy đều đã xong rồi.
Chương trình sáng tạo của Đức Chúa Trời giờ đây đã xong rồi, đã hoàn tất và đã trọn vẹn. Điều nầy được nhấn mạnh cách mạnh mẽ trong câu nầy. Hãy chú ý cụm từ "muôn vật". Đây là một hình ảnh quân sự. Ý tưởng "muôn vật" trong sự sáng tạo giờ đây đã được thực hiện xong rồi và rất là trọn vẹn:
+ mọi nguyên tử và phân tử
+ mọi vật chất và năng lượng
+ mọi khí đốt và hóa chất
+ mọi ngôi sao và các hành tinh
+ mọi đời sống thực vật và rau cỏ
Muôn vật giờ đây đã được truyền cho lịnh lạc, được sắp đặt và tổ chức, được sắp xếp và được đặt vào đúng chỗ của chúng. Vô số tạo vật trong sự sáng tạo đã được làm xong, hoàn toàn và trọn vẹn đúng theo như Đức Chúa Trời mong muốn.

Tư tưởng 1. Đức Chúa Trời đã làm xong, hoàn toàn và trọn vẹn mọi công việc trong sự sáng tạo. Đức Chúa Trời luôn luôn làm hoàn toàn và trọn vẹn những gì Ngài bắt đầu. Vì lẽ đó, Ngài sẽ làm cho hoàn toàn và trọn vẹn công tác cứu rỗi trong đời sống của từng người tin Chúa, cho tới ngày cứu chuộc vinh hiển.

"tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ" (Philíp 1:6).
"Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài" (Philíp 2:13).
"Đấng đã gọi anh em là thành tín, chính Ngài sẽ làm việc đó" (I Têsalônica 5:24).
"Vì biết ta đã tin Đấng nào, chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự ta đã phó thác cho đến ngày đó" (II Timôthê 1:12).
"nếu chúng ta không thành tín, song Ngài vẫn thành tín, vì Ngài không thể tự chối mình được" (II Timôthê 2:13).
"là kẻ bởi đức tin nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời giữ cho, để được sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ sau rốt!" (I Phierơ 1:5).
"Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được, là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men" (Giuđe 24-25).

2. (2:2) Ngày Sa-bát — Ngày Chúa Nhật — Sự sáng tạo: Đức Chúa Trời đã nghỉ công việc Ngài vào ngày thứ bảy.
1. Hãy chú ý từ ngữ "nghỉ". Trong tiếng Hybálai từ nầy có nghĩa là công bố kết thúc; tuyên bố “xong rồi” (H.C. Leupold, Genesis, Vol.1, p.102). Ý nói rằng Đức Chúa Trời công bố công việc sáng tạo của Ngài đã “xong rồi”.

Tư tưởng 1. Sự vui mừng của Đức Chúa Trời, Đấng Christ, Đức Thánh Linh, và đoàn thiên binh thiên sứ ở trên trời phải là một trong những biến cố long trọng nhất từng được chứng kiến trong cõi đời đời. Sự công bố của Đức Chúa Trời cho biết sự sáng tạo vũ trụ giờ đây đã hoàn tất đã làm dấy lên sự phấn khích — nhiều sự phấn khích, ngợi khen, và thờ phượng như đã từng được chứng kiến trong suốt cõi đời đời.

2. Hãy chú ý từ ngữ "nghỉ" (shabhath). Từ nầy có ý nói ngưng lại hay đình chỉ không làm việc nữa. Ý tưởng không phải là Đức Chúa Trời nghỉ mọi công việc theo sau sự sáng tạo đâu. Đức Chúa Trời không cần nghỉ ngơi như con người cần nghỉ ngơi: Ngài không mệt mỏi, nặng nề, bị áp lực, hay kiệt sức đối với công việc của Ngài trong sự sáng tạo. Sáng thế ký 2:2 rõ ràng nói cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đã nghỉ ngơi hay thôi không làm việc: "Ngài nghỉ các công việc Ngài đã làm [hay dựng nên]". Từ ngữ "làm" (melakhah) có ý nói tới một công việc thật đặc biệt, một việc làm hay một phần việc rất đặc biệt. Công việc hay phần việc đặc biệt mà Đức Chúa Trời định làm là công cuộc sáng tạo; vì lẽ đó, công việc mà Đức Chúa Trời nghỉ ngơi là công việc của sự sáng tạo. Ý nghĩa có thể trình bày bằng một vài cách:
+ Đức Chúa Trời đã làm xong công tác sáng tạo của Ngài; vì lẽ đó, Ngài nghỉ ngơi, đình chỉ công tác sáng tạo của Ngài.
+ Đức Chúa Trời đã hoàn tất công việc mà Ngài mới vừa làm xong, công việc của sự sáng tạo; vì lẽ đó, Ngài nghỉ ngơi, đình chỉ công tác sáng tạo của Ngài.
+ Đức Chúa Trời đã kết thúc công việc đặc biệt mà Ngài đề ra để làm; vì lẽ đó, Ngài nghỉ ngơi, đình chỉ công tác sáng tạo của Ngài.
+ Đức Chúa Trời đã hoàn tất và làm trọn vẹn công việc của sự sáng tạo; vì lẽ đó, Ngài đứng ra một bên với ý thức bình an yên lặng và sự thành tựu công tác sáng tạo của Ngài.
Mục đích là đây: Đức Chúa Trời không nghỉ ngơi hay đình chỉ không làm việc. Ngài chỉ nghỉ ngơi và đình chỉ không làm công việc mà Ngài đang làm trong tuần lễ đó. Công việc của Ngài cho tuần lễ ấy — công việc của sự sáng tạo — đã hoàn tất. Sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời không phải là...

+ ì ạch
+ nhàn rỗi
+ uể oải
+ biếng nhác
+ ngủ thiu thiu
+ chiếu lệ

"Ngươi không biết sao, không nghe sao? Đức Chúa Trời hằng sống, là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các đầu cùng đất, chẳng mỏi chẳng mệt; sự khôn ngoan Ngài không thể dò" (Êsai 40:28).

Sự yên nghỉ của Đức Chúa Trời là một ý thức về sự bình an yên tĩnh và sự thành tựu về công việc sáng tạo mà Ngài mới vừa hoàn tất. Bức tranh mô tả: Đức Chúa Trời lấy một ngày, ngày thứ bảy, đứng lui lại rồi thưởng thức công tác có tính cách sáng tạo. Không nghi ngờ chi nữa, tất cả thiên binh thiên sứ trên trời đã tham dự lễ kỷ niệm của Ngài và sự công bố rằng công việc của sự sáng tạo, sáu ngày quan trọng của sự sáng tạo, giờ đây đã hoàn tất. Ngày thứ bảy yên nghỉ của Đức Chúa Trời — ngày yên nghỉ của Đức Chúa Trời — là một nhận thức bề trong về...


+ bình an
+ thành tựu
+ phu phỉ
+ thỏa lòng
+ bảo đảm
+ tin cậy
+ hoàn toàn
+ thành công
+ có mục đích
+ có ý nghĩa
+ tán thưởng
+ an toàn

Đức Chúa Trời rất hài lòng với công việc của Ngài. Khi đứng ở đó trong ngày thứ bảy, Ngài cảm thấy Ngài đã làm một công việc rất đặc biệt. Đức Chúa Trời đã có cảm xúc về sự bình an, thỏa lòng, và thành tựu. Ngài yên nghỉ với những gì Ngài đã làm. (Xem chú thích, Yên NghỉHêbơrơ 4:1 để thảo luận).

Tư tưởng 1. Con người cần phải noi theo tấm gương của Đức Chúa Trời. Con người cần phải biệt riêng một ngày khi họ nghỉ ngơi khỏi công việc của mình. Nhưng suốt cả tuần lễ, con người cũng phải lao động y như Đức Chúa Trời đã lao động, cần cù và trung tín. Con người phải lao động y như Đức Chúa Trời đã lao động: đứng trong ngày yên nghỉ của mình rồi nhìn lại tuần lễ trước, rồi có nhận thức sâu sắc về sự thành tựu. Con người cần phải...
+ cảm thấy như mình đã làm một việc tốt.
+ cảm thấy thỏa lòng và phu phỉ vì họ đã lao động cách cần cù.
+ cảm thấy có mục đích vì họ đã góp phần làm thỏa mãn mọi nhu cần của con người và xã hội và biến thế gian thành một nơi tốt hơn để cư trú.
Thảm họa lớn lao là đây: có một vài người có sự yên nghỉ nầy của Đức Chúa Trời, yên nghỉ về sự phu phỉ, thỏa lòng, và có mục đích trong đời sống. Có quá ít công việc phải cần cù. Quá ít người làm mọi sự họ có thể làm để làm thỏa mãn các nhu cần của con người và xã hội. Phần lớn đều đặn làm công việc của họ, sử dụng ít năng lượng và nổ lực như có thể được, và làm ít việc với thái độ ích kỷ như có thể được.

"Chủ đáp rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm; ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui mừng của chúa ngươi" (Mathiơ 25:23).
"Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành" (I Côrinhtô 4:2).
"Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy run sợ, lấy lòng thật thà mà vâng phục kẻ làm chủ mình theo phần xác, như vâng phục Đấng Christ, không phải vâng phục trước mặt người mà thôi, như các ngươi kiếm cách làm đẹp lòng người ta, nhưng phải như tôi tớ của Đấng Christ, lấy lòng tốt làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Hãy đem lòng yêu mến hầu việc chủ, cũng như hầu việc Chúa, chẳng phải như hầu việc người ta" (Êphêsô 6:5-7).
"Mặc dầu anh em nói hãy làm, cũng phải nhân danh Đức Chúa Jêsus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha" (Côlôse 3:17).
"Hết thảy những kẻ dưới ách đầy tớ phải coi chủ mình là đáng trọng mọi đàng, hầu cho danh hiệu và đạo lý của Đức Chúa Trời khỏi bị làm trò cho người phạm thượng" (I Timôthê 6:1).
"Hãy khuyên những tôi tớ phải vâng phục chủ mình, phải làm đẹp lòng chủ trong mọi việc, chớ cãi trả" (Tít 2:9).
"Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy lấy lòng rất kính sợ mà phục theo chủ mình, chẳng những phục những chủ hiền lành mà thôi, lại phải phục người chủ khó tánh nữa" (I Phierơ 2:18).
"Ai săn sóc cây vả, sẽ ăn trái nó; Và kẻ nào hầu chủ mình ắt được tôn trọng" (Châm ngôn 27:18).
"Mọi việc tay ngươi làm được, hãy làm hết sức mình; vì dưới âm phủ, là nơi ngươi đi đến, chẳng có việc làm, chẳng có mưu kế, cũng chẳng có tri thức, hay là sự khôn ngoan" (Truyền đạo 9:10).
3. (2:3) Ngày Sa-bát — Ngày Chúa Nhật: Đức Chúa Trời chúc phước cho ngày thứ bảy và biệt riêng ra làm ngày thánh. Hãy chú ý — Đức Chúa Trời đã biệt riêng ra ngày thứ bảy.

"Rồi, Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó, Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi" (Sáng thế ký 2:3).

Chẳng có thắc mắc nào về Đức Chúa Trời làm gì với ngày thứ bảy. Ngài biệt riêng ngày ấy đối với những ngày khác trong tuần. Bốn việc quan trọng chỉ ra điều nầy.
1. Đức Chúa Trời chúc phước cho ngày thứ bảy. Lưu ý: đây đúng là ngày được chúc phước. Không một ngày nào khác được chúc phước, chỉ có ngày thứ bảy. Chỉ có ngày thứ bảy được tôn trọng với sự chúc phước của Đức Chúa Trời.
2. Đức Chúa Trời thánh hóa ngày thứ bảy. Từ ngữ "đặt là ngày thánh" có nghĩa là biệt riêng ra và làm nên thánh. Đức Chúa Trời nhất định đã làm cho ngày ấy ra thánh và tuyên bố ngày ấy là thánh. Điều nầy rất quan trọng: nó có nghĩa là ngày thứ bảy đã được biệt riêng ra làm một ngày thường trực. Ngày thứ bảy có một sự thường trực mà sáu ngày kia không có. Bất kỳ loại công việc nào đều có thể được làm trong sáu ngày kia, song không được làm vào ngày thứ bảy. Công việc được làm vào ngày thứ bảy bị xem như vô ích. Đây là ngày được biệt riêng ra vì một mục đích đặc biệt. Đây là một ngày rất khác biệt đối với sáu ngày kia, một ngày không bao giờ được cho qua đi, một ngày được ban cho để làm công việc của sự thánh khiết.

Tư tưởng 1. Chú ý sự kiện nầy: ngày thứ bảy được làm nên thánh và được tuyên bố là thánh bởi Đức Chúa Trời. Chính sự kiện nầy chính mình Đức Chúa Trời thực hiện có nghĩa là ngày nầy được tôn thánh và thánh khiết. Bất luận con người lạm dụng ngày nghỉ và thờ phượng như thế nào đi nữa, ngày nầy vẫn được tôn thánh và thánh khiết đối với Đức Chúa Trời và các môn đồ thật của Ngài.
Đúng là một bản cáo trạng nghịch lại con người! Chúng ta cần phải bỏ đi thái độ lạm dụng ngày yên nghỉ và thờ phượng. Nhiều người nghỉ ngơi, nhưng có một ít người dành sự thánh khiết cho ngày ấy.

3. Đức Chúa Trời nghỉ ngơi và thờ lạy vào ngày thứ bảy. Không nghi ngờ chi nữa, tất cả các thiên binh thiên sứ trên trời đã vui mừng với Đức Chúa Trời khi Ngài kỷ niệm công việc vinh hiển của Ngài về sự sáng tạo. Thiên binh thiên sứ — tất cả các thiên sứ, sêraphim, và chêrubin của Đức Chúa Trời — bị buộc phải ngợi khen và chúc phước Đức Chúa Trời vì công việc là lùng của Ngài. Đức Chúa Trời là...
+ Đấng Tạo Hóa Uy Quyền
+ Đấng Khôn Ngoan Và Quyền Phép Tối Thượng
+ Chúa Tể của vũ trụ
Đức Chúa Trời xứng đáng với mọi sự vinh hiển và oai nghi, mọi quyền phép, mọi sự ngợi khen và cảm tạ, mọi sự tôn vinh và thờ lạy. Ngày thứ bảy thứ nhứt, ngày yên nghỉ long trọng của Đức Chúa Trời, phải là một trong những ngày thờ phượng vinh hiển nhất từng được kinh nghiệm trong toàn bộ cõi đời đời.
4. Đức Chúa Trời biệt riêng ngày ấy làm một ngày kỷ niệm và ngợi khen. Đức Chúa Trời đã làm nên thánh và lập ngày ấy ra thánh, biệt riêng ngày ấy làm một ngày đặc biệt và làm một ngày thường trực. Giờ đây hãy chú ý: ngày nầy không được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời; nó được biệt riêng ra cho con người. Đức Chúa Trời không cần một ngày yên nghỉ thường trực. Nói năng và suy nghĩ như thế thì dại dột lắm. Ngày yên nghỉ và thánh khiết được biệt riêng ra cho con người. Con người cần ngày ấy vì hai mục đích đặc biệt.
a. Con người cần một ngày để họ có thể nghỉ ngơi, cả thuộc thể và thuộc linh. Con người cần một ngày để họ có thể kinh nghiệm một sự bình an và ý thức về sự thành tựu công việc của mình trong tuần qua. (Xem chú thích 2 — Sáng thế ký 2:2 để thảo luận).
b. Con người cần một ngày để thờ phượng và chúc phước, để ngợi khen và cảm tạ.
Con người cần một ngày được biệt riêng ra cho mình để tập trung vào Đức Chúa Trời. Khoảng thời gian sinh sống của con người thì ngắn ngủi và mục tiêu tình cảm của người không kéo dài được lâu. Vì lẽ đó, con người cần một ngày trong mỗi bảy ngày khi họ tập trung sự chú ý và tình cảm của mình vào Đức Chúa Trời, một ngày khi họ có thể tập trung vào Đức Chúa Trời mà không xao lãng. Con người cần một ngày mỗi tuần để thờ phượng Đức Chúa Trời, để thờ lạy...
+ bằng sự ngợi khen Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của vũ trụ.
+ bằng sự cảm tạ Đức Chúa Trời về cuộc sống: đặc ân và sự tiếp trợ cho cuộc sống.
+ bằng cách công nhận Đức Chúa Trời là Chúa Tể của vũ trụ.
+ bằng cách chúc phước Đức Chúa Trời vì đặc ân lao động và mạnh khỏe suốt cả tuần lễ.
+ bằng cách phục vụ Đức Chúa Trời trong tinh thần thánh khiết và công bình.
+ bằng cách cầu xin Đức Chúa Trời làm thỏa mãn mọi nhu cần của mình và nhu cần của tha nhân.

Tư tưởng 1. Chỉ hãy tưởng tượng thể nào Đức Chúa Trời chúc phước cho người nào tuân giữ ngày yên nghỉ và thờ phượng y như Ngài dự trù ngày ấy phải được tuân giữ!

"Phước thay cho người làm điều đó, và con người cầm vững sự đó, giữ ngày Sa-bát đặng đừng làm ô uế, cấm tay mình không làm một điều ác nào!" (Êsai 56:2).
"Nếu ngươi ngừa giữ chân mình trong ngày Sa-bát, không làm vừa ý mình trong ngày thánh của ta; nếu ngươi xưng ngày Sa-bát là ngày vui thích, coi ngày thánh của Đức Giê-hô-va là đáng kính; nếu ngươi tôn trọng ngày đó, không đi đường riêng mình, không theo ý riêng mình, và không nói lời riêng mình, bấy giờ ngươi sẽ lấy Đức Giê-hô-va làm vui thích, ta sẽ làm cho ngươi cỡi lên các nơi cao trên đất, và lấy sản nghiệp của Gia-cốp, tổ phụ ngươi, mà nuôi ngươi; vì miệng Đức Giê-hô-va đã phán vậy" (Êsai 58:13-14).
"Phước cho người nào ở trong nhà Chúa! Họ sẽ ngợi khen Chúa không ngớt" (Thi thiên 84:4).
"Quả thật, trọn đời tôi Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi; Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài" (Thi thiên 23:6).
"Tôi đã xin Đức Giê-hô-va một điều, và sẽ tìm kiếm điều ấy! Ấy là tôi muốn trọn đời được ở trong nhà Đức Giê-hô-va, Để nhìn xem sự tốt đẹp của Đức Giê-hô-va, Và cầu hỏi trong đền của Ngài" (Thi thiên 27:4).
"Phước thay cho người mà Chúa đã chọn và khiến đến gần, Đặng ở nơi hành lang Chúa: Chúng tôi sẽ được no nê vật tốt lành của nhà Chúa, Là đền thánh của Ngài" (Thi thiên 65:4).

Tư tưởng 2. Con người phải trung tín tuân giữ ngày sa-bát.

"Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh" (Xuất Êdíptô ký 20:8).
"Trong sáu ngày ngươi hãy làm công việc, nhưng qua ngày thứ bảy hãy nghỉ, dẫu mùa cày hay mùa gặt ngươi cũng phải nghỉ vậy" (Xuất Êdíptô ký 34:21).
"Phước thay cho người làm điều đó, và con người cầm vững sự đó, giữ ngày Sa-bát đặng đừng làm ô uế, cấm tay mình không làm một điều ác nào!" (Êsai 56:2).

Tư tưởng 3. Có một sự khác biệt giữa ngày sa-bát khi được tuân giữ bởi người Do thái và người khác và ngày Chúa nhật khi được tuân giữ bởi những tín đồ Cơ đốc. Ngày Sa-bát là ngày sau cùng của tuần lễ. Đây là một ngày mà Chúa Jêsus Đấng Mêsi đã ở trong mồ, một ngày buồn rầu cho người tín đồ Cơ đốc. Tuy nhiên, Ngày Chúa Nhật là ngày đầu của tuần lễ. Đây là một ngày rất đỗi vui mừng, vì đây là ngày phục sinh của Chúa Jêsus, ngày Ngài thắng hơn sự chết. Ngày nầy được gọi là ngày của Chúa và được kỷ niệm là một ngày yên nghỉ và vui mừng, một ngày vinh hiển để dò xét linh hồn và suy gẫm về Đức Chúa Trời. Đây là ngày thờ phượng và là ngày tương giao Cơ đốc được tổ chức bởi các tín đồ trên khắp thế giới (Công Vụ các Sứ Đồ 20:7; I Côrinhtô 16:2).
+ Thờ phượng vào ngày sa-bát là thông lệ của Chúa Jêsus (Luca 4:16).
+ Thờ phượng vào ngày Chúa nhật là thông lệ của Phaolô (Công Vụ các Sứ Đồ 17:2).
+ Dân sự của Đức Chúa Trời không chễnh mãng trong sự thờ phượng (Hêbơrơ 10:25; đối chiếu Công Vụ các Sứ Đồ16:13).
+ Dân sự của Đức Chúa Trời cần phải ghi nhớ ngày sa-bát, phải giữ ngày ấy là thánh (Xuất Êdíptô ký 20:8; 31:14; 34:21).
+ Dân sự của Đức Chúa Trời được hứa cho một ơn phước đặc biệt về việc tuân giữ thánh khiết cho ngày sa-bát (Êsai 56:2; 58:13-14).
+ Làm ô uế ngày sa-bát sẽ đem lại sự phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên một người (Êxêchiên 20:13; 22:8, 15; đối chiếu Dân số ký 15:32-35; Giêrêmi 17:27; Êxêchiên 20:13; 22:8, 15).
+ Mua bán không được phép trong ngày sa-bát (Nêhêmi 10:31; 13:15).
+ Giúp người nghèo thiếu là hợp lẽ trong ngày sa-bát (Mathiơ 12:12; đối chiếu Giăng 7:23; 9:14).
+ Các tín hữu đầu tiên đã thờ phượng vào ngày Đấng Christ sống lại từ kẻ chết, nghĩa là, vào ngày Chúa nhật, ngày đầu tiên của tuần lễ (Công Vụ các Sứ Đồ 20:7; I Côrinhtô 16:2).