Mathiơ 4:1-11: “Bấy giờ, Đức Thánh Linh đưa Đức Chúa Jêsus đến nơi đồng vắng, đặng chịu ma quỉ cám dỗ. Ngài đã kiêng ăn bốn mươi ngày bốn mươi đêm rồi, sau thì đói. Quỉ cám dỗ đến gần Ngài, mà nói rằng: Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời, thì hãy khiến đá nầy trở nên bánh đi. Đức Chúa Jêsus đáp: Có lời chép rằng: Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời. Ma quỉ bèn đem Ngài vào nơi thành thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ, và nói rằng: Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời, thì hãy gieo mình xuống đi; vì có lời chép rằng: Chúa sẽ truyền các thiên sứ gìn giữ ngươi, thì Các Đấng ấy sẽ nâng ngươi trong tay, Kẻo chân ngươi vấp nhằm đá chăng. Đức Chúa Jêsus phán: Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy; mà nói rằng: Ví bằng ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi. Ma quỉ bèn bỏ đi; liền có thiên sứ đến gần mà hầu việc Ngài”.
BỐ CỤC:
C. Sự cám dỗ của Chúa Jêsus: Đắc thắng mọi cám dỗ, 4:1-11Xem:NC1, Xem:NC2, Xem:NC3
(Mác 1:12-13; Luca 4:1-13)
1 Sự cám dỗ của Chúa Jêsus (câu 1)
a. Được dẫn dắt bởi Đức Thánh Linh (câu 1a)
b. Bị cám dỗ bởi ma quỉ (câu 1b)
2 Cám dỗ 1: Chứng minh thần tánh của Ngài bằng cách sử dụng quyền phép của Ngài vì những lý do riêng tư (các câu 2-4)
a. Sự cám dỗ (câu 3)
1) Bảo đảm bởi quyền phép riêng của Ngài (câu 3a)
2) Tin cậy bản thân Ngài và khả năng riêng của Ngài thay vì tin cậy nơi Đức Chúa Trời (câu 3b)
b. Câu trả lời của Chúa Jêsus: Trích từ Kinh thánh (câu 4)
1) Con người cần nhiều hơn là bánh (câu 4a)
2) Con người cần sự sống của Đức Chúa Trời — thuộc linh (câu 4b)
3 Cám dỗ 2: Chứng minh thần tánh của Ngài bằng To prove His deity sự ngoạn mục (các câu 5-7)
a. Sự cám dỗ (câu 6)
1) Thử Đức Chúa Trời (câu 6a)
2) Lôi cuốn sự chú ý bằng sự ngoạn mục (câu 6b)
b. Câu trả lời của Chúa Jêsus: Từ Kinh thánh (câu 7)
1) Không nên thử Đức Chúa Trời (câu 7a)
2) Phải tin cậy Đức Chúa Trời, chớ không tin vào sự ngoạn mục (câu 7b)
4 Cám dỗ 3: Chứng minh thần tánh của Ngài bằng sự thỏa hiệp (các câu 8-10)
a. Sự cám dỗ (các câu 8-9)
1) Đạt mục tiêu của Ngài bằng con đường khác (câu 8)
2) Vặn cong lòng trung thành hay bắt con được tắt (câu 9)
b.Câu trả lời của Chúa Jêsus: Từ Kinh thánh (câu 10)
1) Một sự chọn lựa có tính quyết định (câu 10a)
2) Thờ lạy chỉ một mình Đức Chúa Trời (câu 10b)
5 Phần kết luận: Đắc thắng (câu 11)
MATHIƠ: PHẦN II
SỬA SOẠN CHO SỰ ĐẾN CỦA ĐẤNG MÊSI, 3:1-4:11
C.Sự cám dỗ của Chúa Jêsus: Đắc thắng mọi cám dỗ, 4:1-11
(4:1-11) Phần giới thiệu — Đức Chúa Jêsus Christ, Sự Cám Dỗ: Tại sao Chúa Jêsus lại bị cám dỗ trong lúc nầy, ngay sau khi Ngài chịu phép báptêm (một kinh nghiệm đỉnh cao) và ngay trước khi mở ra chức vụ của Ngài? Có một lý do chính.
Đức Chúa Jêsus Christ sắp sửa mở ra chức vụ của Ngài — một chức vụ khó tin lập ra để quyết định số phận đời đời của mỗi người đã từng sống hay sẽ sống. Gánh nặng quan trọng của chức vụ đó, tính cần thiết của sự sửa soạn cá nhân, và nhu cần phải có một chương trình đúng đắn đã chất trên Ngài. Ngài phải được sửa soạn — sửa soạn về trí khôn, sửa soạn về mặt thuộc linh, sửa soạn về mặt thuộc thể. Ngài sửa soạn cho chính mình Ngài như thế nào? Chỉ có một phương thức: Ngài cần phải ở riêng với Đức Chúa Trời và bắt phục chính mình Ngài; kiếm được quyền điều khiển trọn vẹn trên thân thể và Linh Hồn Ngài. Ngài phải biệt riêng hoàn toàn đối với thế gian.
Jêsus nầy đã sửa soạn. Ngài đã "được dẫn dắt bởi Đức Thánh Linh" để biệt riêng Ngài ra khỏi đồ ăn và khỏi mọi thứ khác nữa. Ngài đã biệt riêng trong bốn mươi ngày và đêm để ở với Đức Chúa Trời. Ngài đã ở trong sự sốt sắng nhất, cần phải như thế một khi chức vụ Ngài sắp sửa mở ra. Ngài đã cầu nguyện; Ngài đã suy nghĩ; Ngài đã suy gẫm Kinh thánh luôn. Và Ngài trù tính. Ngài đã mang lấy một trách nhiệm nặng nề như thế, và mọi sự căng thẳng với gánh nặng và bổn phận của nó đè nặng trên Ngài. Chỉ hãy hình dung áp lực và gánh nặng đang đè nặng trên thân thể Ngài xem. Ngài đã cầu nguyện; Ngài đã thắc mắc; Ngài đã nài xin; Ngài tan vỡ; Ngài đã khóc — Ngài đã nài xin sức lực và sự chịu đựng hầu đứng vững dưới mọi sự sắp sửa đối diện với Ngài trong những năm tháng hầu đến. Sự sửa soạn cứ tiếp tục trong bốn mươi ngày và đêm.
Chúa Jêsus đã từng tham dự vào chương trình cần thiết hầu mở ra chức vụ của Ngài, và Ngài từng nhận lãnh sức lực cần thiết để đi tới, sự sửa soạn cá nhân Ngài chỉ thiếu có một việc: đối diện với những sự cám dỗ sẽ đối mặt với Ngài trong những năm tháng hầu đến. Đối diện với những sự cám dỗ công kích dữ dội đặt ở trước mặt sẽ hoàn tất sự sửa soạn của Ngài. Thế là "Đức Chúa Jêsus đến nơi đồng vắng…Ngài đã kiêng ăn bốn mươi ngày bốn mươi đêm rồi, sau thì đói" (Mathiơ 4:1-2).
"Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu" (Hêbơrơ 5:8).
"Vả, vì chính mình Ngài chịu khổ trong khi bị cám dỗ, nên có thể cứu những kẻ bị cám dỗ vậy" (Hêbơrơ 2:18; đối chiếu Hêbơrơ 2:16-17).
"Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng" (Hêbơrơ 4:15-16).
1.Sự cám dỗ của Chúa Jêsus (câu 1).
2.Cám dỗ 1: chứng minh thần tánh của Ngài bằng cách sử dụng quyền phép của Ngài vì những lý do riêng tư (các câu 2-4).
3.Cám dỗ 2: chứng minh thần tánh của Ngài bằng sự ngoạn mục (các câu 5-7).
4.Cám dỗ 3: chứng minh thần tánh của Ngài bằng sự thỏa hiệp (các câu 8-10).
5.Phần kết luận: Đắc thắng (câu 11).
NGHIÊN CỨU #1 (4:1-11) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự cám dỗ: đây không phải là lần duy nhứt Chúa Jêsus bị cám dỗ.
1.Satan đã cám dỗ Chúa Jêsus qua Phierơ khi Phierơ tìm cách khiến Ngài đừng nghĩ đến thập tự giá. Chúa Jêsus đã tỏ ra điều chi thực sự ở đàng sau sự quan tâm của Phierơ: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta!" (Mathiơ 16:23).
2.Chúa Jêsus đã khen ngợi các môn đồ bằng câu nói: "Còn như các ngươi, đã bền lòng theo ta trong mọi sự thử thách ta" (Luca 22:28).
3.Chúa Jêsus đã đối diện với sự cám dỗ nghiệt ngã nhứt trong đời sống của Ngài tại Vườn Ghếtsêmanê. Chính ở đó, Satan đã thực thi nổ lực sau cùng để hướng Đấng Christ ra khỏi thập tự giá.
Trong việc đề cập tới kinh nghiệm của Đấng Christ ở Vườn Ghếtsêmanê, Kinh thánh phán cùng hết thảy những người tin Chúa: "Anh em chống trả với tội ác còn chưa đến nỗi đổ huyết" (Hêbơrơ 12:4; đối chiếu Luca 22:44).
Tư tưởng 1. Ma quỉ biết rõ chỗ để cám dỗ một người.
1) Trong đồng vắng: Khi một người sống không có bánh, khi người ấy thực sự đang có cần. Đây là sự cám dỗ đối với tư dục của xác thịt.
2) Trên nóc đền: khi một người có mặt trước đám đông. Đây là sự cám dỗ đối với sự kiêu ngạo — sự kiêu ngạo của đời (nổi tiếng).
3) Trên núi cao: khi một người nhìn thấy điều cho có giá trị — có khi điều chi đó thuộc về người, có khi đáng ao ước. Đây là sự cám dỗ đối với sự kiêu căng của mắt.
NGHIÊN CỨU #2 (4:1-11) Cám dỗ: xem Nghiên Cứu #1 — Luca 4:1-2.
NGHIÊN CỨU #3 (4:1-11) Đức tin — Minh chứng — Bằng chứng — Sự hư nát: Đức Chúa Jêsus Christ bị ma quỉ cám dỗ ba lần. Ngài bị cám dỗ để minh chứng rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Minh chứng thần tánh của Ngài, đâu là sự sai lầm?
Minh chứng không phải là phương thức của Đức Chúa Trời; đức tin là phương thức của Đức Chúa Trời. Minh chứng không phải là điều Đức Chúa Trời mong muốn; đức tin là điều Đức Chúa Trời mong muốn. Đức Chúa Trời muốn được tin cậy là kính mến. Ngài muốn được yêu mến cách tự do, chớ chẳng phải yêu vì ép buộc — vì có người bị ép buộc bởi minh chứng không thể bài bác được. Có những sự kiện, nhiều minh chứng cho thấy rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời; song theo phần phân tích sau cùng, một hành động đức tin cần phải nắm lấy. Không một ai đã nhìn thấy Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không thể được nhìn biết bằng những cảm xúc vật lý. Muốn nhìn biết Đức Chúa Trời, một người phải nhảy vọt bởi đức tin, đến với Đức Chúa Trời bằng một hành động của niềm tin, tin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho đức tin của mình.
"Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài" (Hêbơrơ 11:6).
Đức Chúa Jêsus Christ đạt tới chỗ thiết lập và dàn dựng con đường đức tin. Vì thế, Đức Chúa Jêsus Christ phải chối bỏ bất cứ điều gì dẫn con người ra khỏi đời sống đức tin. Hãy chú ý hết thảy ba lần cám dỗ phải thực hiện với những cảm xúc của con người và thế giới vật lý xem. Nếu Đấng Christ nhượng bộ và bảo đảm lòng trung thành của con người bằng cách đưa bánh cho cả thế gian ăn, hay bởi việc làm ra một phép lạ ngoạn mục, hoặc bởi việc nắm lấy các vương quốc đời nầy, cuộc sống sẽ kết thúc và kết thúc ngay thôi. Tại sao chứ? Vì mọi người đều chết. Mọi thứ đều hư mất đi. Thế gian thuộc về vật chất, hư nát và dãy chết, hư hỏng và mục nát. Thế gian không lâu dài được. Đấy đúng là con đường của thế giới vật lý và mọi sự ở trong nó. Đây chính là lý do mà Đức Chúa Jêsus Christ đã ngự đến — chinh phục thế giới vật lý đang dãy chết, rồi đưa dẫn vào thế giới linh hồn đời đời — bằng con đường đức tin.
Vì lẽ ấy, chính Đức Chúa Jêsus Christ phải sống đời sống của đức tin. Ngài phải bước đi trên con đường đức tin, của sự tin cậy và tin theo chính mình Đức Chúa Trời. Ngài phải chối bỏ các minh chứng của ma quỉ rồi chứng tỏ và hướng dẫn loài người bởi đức tin.
1. (4:1) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự cám dỗ: Sự cám dỗ của Chúa Jêsus. Ba sự kiện cần phải để ý về sự cám dỗ của Chúa Jêsus.
1.Chúa Jêsus bị cám dỗ ngay sau khi Ngài chịu phép báptêm. Cụm từ "bấy giờ" chỉ ra sự việc nầy. Tất cả ba sách Tin Lành đều nhấn mạnh sự kiện nầy. Ngài mới vừa có kinh nghiệm đỉnh cao, một kinh nghiệm rất đặc biệt với Đức Chúa Trời. Thế rồi ngày lập tức, Satan liền tấn công Ngài.
2.Chúa Jêsus là con người duy nhứt biết rõ về những sự cám dỗ. Ngài là con người duy nhứt ở đó. Những gì các trước giả Tin Lành ghi lại là những điều Ngài đã chia sẻ với họ.
3.Chúa Jêsus đã được Đức Thánh Linh dẫn dắt để chịu ma quỉ cám dỗ. Chúa Jêsus bị cám dỗ vì ba lý do.
a.Học biết sự vâng phục — điểu khiển thân thể, lý trí và tâm linh của Ngài.
"Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu" (Hêbơrơ 5:8).
b.Để bảo đảm sự công bình — sự trọn vẹn lý tưởng và tình trạng vô tội dành cho con người (xem Nghiên Cứu #2 — Rôma 8:3).
"Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời" (II Côrinhtô 5:21).
c.Để kinh nghiệm mọi sự bất toàn của đời sống con người hầu cho Ngài có thể cứu giúp con người.
"Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng" (Hêbơrơ 4:15-16).
Trong việc bàn luận về sự cám dỗ, thật là quan trọng khi nhớ rằng Đức Chúa Trời không cám dỗ con người (Giacơ 1:13). Đức Chúa Trời để cho con người bị cám dỗ với cùng những lý do mà Ngài để cho Đấng Christ chịu cám dỗ. Đức Chúa Trời để cho con người bị cám dỗ...
1. Để chứng minh và bày tỏ ra đức tin của họ.
2. Để củng cố và sửa soạn cho con người để lãnh lấy những trách nhiệm cao hơn.
3. Để rỏ ra lòng thương xót, ân điển, và quyền phép của Đức Chúa Trời trong đời sống của một con người.
Tư tưởng 1. Có những thời điểm đặc biệt khi mối tương giao với Đức Chúa Trời tuyệt đối là quan trọng: (1) sau một kinh nghiệm đỉnh cao (phép báptêm của Đấng Christ); (2) trước một cơn thử thách lớn hay thời điểm cám dỗ. Hãy chú ý, Chúa Jêsus đã sử dụng bốn mươi ngày ở riêng với Đức Chúa Trời trước khi kẻ cám dỗ đến với Ngài; (3) thời kỳ phục vụ cho Đức Chúa Trời. Thật là một sai lầm lớn khi ra trước công chúng hay trở lại từ công chúng mà không biệt riêng thì giờ để ở với Đức Chúa Trời. Công chúng, ít nhất là một phần công chúng, sẽ phủ phục ôm hôn nơi chơn của tôi tớ Đức Chúa Trời. Sự cám dỗ có ngay ở trước mặt. Sự sửa soạn rất là quan trọng.
Tư tưởng 2. Ma quỉ tấn công bất cứ đâu và khắp nơi nơi, trong đồng vắng và trong thành phố khi bị vây quanh bởi nhiều người khác. Nhưng sự cám dỗ đặc biệt là mạnh ở những điểm nhất định.
1) Ngay sau kinh nghiệm đỉnh cao.
2) Ngay trước khi mở ra một công việc mới.
3) Trong một vài phút yếu đuối: theo phần xác và trong lý trí.
Tư tưởng 3. Hãy chú ý ba sự kiện về người nào thực sự nhìn biết Đức Chúa Trời và được đặt để vào sự phục vụ Đức Chúa Trời.
1) Một người càng tìm cách phục vụ Đức Chúa Trời, người ấy càng mong bị cám dỗ. Hãy chú ý sự cám dỗ nặng nề và kịch liệt thể nào đang chống lại Đấng Christ.
2) Một người càng tìm cách phục vụ Đức Chúa Trời, người ấy càng cần phải tương giao với Đức Chúa Trời. Thời gian ở riêng với Đức Chúa Trời rất quan trọng. Một thời gian yên tĩnh trong Lời của Đức Chúa Trời — suy gẫm, tương giao và thờ phượng — là tuyệt đối quan trọng đối với người tin Chúa.
3) Sức lực và sự trưởng thành thuộc linh không miễn trừ cho một người khỏi bị cám dỗ. Mỗi người đều bị cám dỗ, ngay cả chính mình Con của Đức Chúa Trời. Không một ai được miễn trừ (I Côrinhtô 10:13).
Tư tưởng 4. Đấng Christ chịu nổi sự cám dỗ nhờ làm ba việc.
1) Ngài dành thời gian ở riêng với Đức Chúa Trời.
2) Ngài biết chắc Ngài được Đức Thánh Linh dẫn dắt.
3) Ngài nương cậy vào Kinh thánh.
Tư tưởng 5. Ma quỉ là kẻ cám dỗ. Hắn là kẻ duy nhứt đã cám dỗ Đức Chúa Jêsus Christ. Hắn là kẻ có quyền phép thuộc linh đã nổ lực hòng hủy diệt mục đích của Đấng Christ (đối chiếu Hêbơrơ 2:14-15). Người tin Chúa phải sửa soạn cho cuộc chiến (xem bố cục — Êphêsô 6:10-20 và các chú thích —Êphêsô 6:10-20. Xem Nghiên Cứu #1 — Khải huyền 12:9).
Tư tưởng 6. Người tin Chúa học được gì về sự kiêng ăn từ kinh nghiệm của Chúa? Chúa Jêsus đã kiêng ăn trong bốn mươi ngày. Ngài đã đối diện với giây phút quan trọng và cụ thể trong đời sống của Ngài; gánh nặng đã đè nặng trên Ngài. Ngài cần sự sửa soạn đặc biệt. Vì vậy, Ngài đã tự sửa soạn đối với thế gian; Ngài đã ở riêng với Đức Chúa Trời. Ngài rất chơn thật và sôi nổi đến nỗi thậm chí Ngài đã tự biệt riêng mình đối với thức ăn.
Những người tin Chúa thường thiếu sót ra sao vì họ không thành thật và sôi nổi đủ để biệt riêng thì giờ ở với Đức Chúa Trời trước mọi sự khác, thậm chí trước đồ ăn? Còn có nhiều điều để thực hiện hơn nữa nếu những người tin Chúa tìm kiếm Đức Chúa Trời với cùng cường độ đó? Sự tấn tới và chức vụ có thể sẽ tấn tới nhiều hơn thế nữa, có phải không?
2. (4:2-4) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự cám dỗ: lần cám dỗ thứ nhứt của Đấng Christ là để minh chứng thần tánh của Ngài bằng cách sử dụng quyền phép của Ngài vì những mục đích riêng tư. Ma quỉ đã cám dỗ Đấng Christ để chứng minh rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời, nghĩa là, bảo đảm lòng trung thành của con người bởi hai hành động:
1. Đấng Christ bị cám dỗ phải sử dụng chính quyền phép của Ngài để làm thỏa mãn cả hai nhu cầu: toàn cầu và riêng tư: ấy là cái đói. Ngài đã bị đói và cơn đói của Ngài vốn nguy cấp. Ngài đã không ăn uống chi hết trong bốn mươi ngày. Ma quỉ đã cám dỗ Ngài phải dựng nên bánh mà nuôi mình, và trong lời đề nghị nầy là ý tưởng kín đáo Ngài có thể cho cả thế giới ăn và minh chứng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Bởi làm vậy Ngài có thể bảo đảm những gì Ngài đã theo đuổi: lòng trung thành và sự thờ phượng của con người. Loài người sẽ chạy ùa đến phục vụ bất kỳ Đấng Mêsi hay con người nào có thể làm thỏa mãn các nhu cần về thuộc thể và vật chất của họ.
2. Đấng Christ bị cám dỗ phải tin cậy chính mình Ngài, chớ không tin cậy Đức Chúa Trời, và phải chọn cách thức khác hơn là cách thức của Đức Chúa Trời. Cách thức của Đức Chúa Trời là con đường đức tin gồm cả thời gian — thời gian chịu đựng những cơn thử thách của cuộc sống — và thập tự giá. Ma quỉ đang nói: "hãy tin cậy bản thân mình, hãy bắt lấy con đường ngắn hơn. Hãy tự nuôi mình và thế giới đi. Mọi nhu cầu của ngươi sẽ được thỏa, và ngươi có thể có được lòng trung thành của con người ngay lập tức".
Có hai điều sai lầm với cách lý luận về sự cám dỗ nầy.
1. Con người cần nhiều thứ hơn là bánh. Con người cần nhiều thứ hơn cuộc sống vật chất và các nhu cầu vật chất sẽ được thỏa mãn.
2. Con người cần sự sống của Đức Chúa Trời. Con người cần sự sống đời đời và con người cần các nhu cầu thuộc linh của mình được thỏa.
Bánh là sự cần thiết trong cuộc sống. Chúa Jêsus có thể minh chứng rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời bằng cách sử dụng quyền phép siêu nhiên của Ngài để tạo ra bánh; Ngài có thể bảo đảm lòng trung thành của con người bằng cách cho họ ăn, nghĩa là, bằng cách làm thỏa mãn các nhu cần thuộc thể của họ. Nhưng Ngài đã thất bại ít nhất ở hai điểm:
1.Ngài đã thất bại không làm thỏa mãn các nhu cần thuộc linh của con người.
2.Ngài đã thất bại bằng cách dạy dỗ sai trái — sai trái ở chỗ thuộc thể thì quan trọng hơn thuộc linh, và nhận lãnh thì quan trọng hơn là ban cho.
Có một sự khao khát thuộc linh không thể làm thỏa mãn bằng bánh thôi đâu. Trách nhiệm của con người cũng y như trách nhiệm của Đấng Christ: họ phải tin cậy Đức Chúa Trời và tìm kiếm những vụ việc của Đức Chúa Trời khi người bước đi mỗi ngày qua cuộc đời nầy.
"Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa" (Mathiơ 6:33).
"Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là bánh của sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói, và ai tin ta chẳng hề khát" (Giăng 6:35).
"Đây là bánh từ trời xuống, hầu cho ai ăn chẳng hề chết. Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng; và bánh mà ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian tức là thịt ta" (Giăng 6:50-51).
"Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta, thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống" (Giăng 5:24).
"Ngươi phải kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, phục sự Ngài, và lấy danh Ngài mà thề" (Phục truyền luật lệ ký 6:13).
"Tôi chẳng hề lìa bỏ các điều răn của môi Ngài, Vẫn vâng theo lời của miệng Ngài hơn là ý muốn lòng tôi" (Gióp 23:12).
"Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi!" (Thi thiên 119:103).
"Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và người nào không có tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu và sữa mà không cần tiền, không đòi giá. Sao các ngươi trả tiền để mua đồ không phải là bánh? Sao các ngươi đem công lao mình đổi lấy vật chẳng làm cho no? Hãy chăm chỉ nghe ta, hãy ăn của ngon, và cho linh hồn các ngươi vui thích trong của béo. Hãy nghiêng tai, và đến cùng ta; hãy nghe ta, thì linh hồn các ngươi được sống" (Êsai 55:1-3).
"Tôi vừa nghe những lời Ngài, thì đã ăn lấy rồi; lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân, vì tôi được xưng bằng danh Ngài!" (Giêrêmi 15:16).
Tư tưởng 1. Những người tin Chúa thường đối diện với chính sự cám dỗ nầy (đối chiếu I Côrinhtô10:13).
1) Để chứng minh họ là ai rồi hành động theo sức riêng và khả năng riêng của họ.
2) Để thỏa mãn một nhu cần (riêng hay chung) theo một phương thức sai lầm và bất hợp pháp: lạm dụng địa vị và khả năng của một người.
3) Để nhấn mạnh các nhu cần vật lý hơn các nhu cầu thuộc linh của con người — chỉ để cho họ ăn bánh thôi, không hề đưa họ đến với thập tự giá (xem Nghiên Cứu #1 — Luca 9:23).
4) Để tin cậy vào bản ngã, chớ không tin cậy Đức Chúa Trời, tìn cậy vào sức lực và khả năng của một người.
Tư tưởng 2. Bốn bài học rõ ràng được thấy có trong sự cám dỗ nầy.
1) Sự cám dỗ thường tấn công một khu vực nhu cầu cấp bách như đói khát. Có một phương thức đúng và sai để làm thỏa mãn bất kỳ nhu cần nào. Thường thì nếu một nhu cầu cần được thỏa, thế thì cách thức nhu cầu ấy được thỏa lại bị bác đi. Nghĩa là, cứu cánh xưng công bình cho phương tiện.
2) Con người phải học biết rằng họ không sống bởi bánh mà thôi. Chỉ thuộc thể thôi thì sẽ không sao thỏa mãn được. Con người có tâm linh; vì lẽ đó, họ cần đến Đức Chúa Trời và nương cậy nơi Ngài. Con người không thể sống nếu chẳng có Đức Chúa Trời. "Ngươi sẽ ăn, song không được no đâu" (Michê 6:14 đối chiếu Aghê 1:6, 9; Mathiơ 6:24-34).
3) Sự cám dỗ cần phải được kháng cự bằng cách sử dụng Lời của Đức Chúa Trời. Người tin Chúa phải nghiên cứu và học hỏi Lời của Đức Chúa Trời để chống cự sự cám dỗ (Thi thiên 119:9, 11; Côlôse 3:16; II Timôthê 2:15; II Timôthê 3:16; I Phierơ 2:2-3).
4) Khi các nhu cần phát sinh, một người phải luôn tự củng cố bản thân mình chống lại sự cám dỗ. Nhu cần càng lớn, thì cuộc tấn công của cám dỗ càng lớn thêm.
3. (4:5-7) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự cám dỗ: lần cám dỗ thứ hai của Đấng Christ là để minh chứng thần tánh của Ngài bằng sự ngoạn mục. Ma quỉ đã cám dỗ Đấng Christ phải chứng minh rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời bằng cách thực hiện thêm hai hành động nữa.
1. Đấng Christ bị cám dỗ để thử Đức Chúa Trời. Ngài bị cám dỗ phải làm ra sự ngoạn mục. Ngài cần phải nhảy xuống từ nóc tháp của đền thờ và khiến Đức Chúa Trời sai các thiên sứ Ngài để chụp lấy Ngài ở giữa không trung rồi đặt Ngài nhẹ nhàng xuống đất. Một khi Ngài là Con độc sanh của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời nhất định sẽ bồng ẳm lấy Ngài (ma quỉ lý luận như vậy).
2. Đấng Christ bị cám dỗ để lôi cuốn sự chú ý bằng sự ngoạn mục. Những người đến thờ lạy tại đền thờ, nhìn xem sự kiện ngoạn mục đó, sẽ chấp nhận và tuyên bố Ngài là Con của Đức Chúa Trời.
Có hai việc sai lầm với lối lý luận ở đàng sau sự cám dỗ nầy.
1. Đức Chúa Trời không cần phải bị thử. Ý muốn, quyền phép, sự bảo hộ, mọi lời hứa của Ngài không cần phải đoán chừng hay lợi dụng hoặc lạm dụng. Đức Chúa Trời không cần phải bị thử hay xem xét; Đức Chúa Trời đáng được tin cậy. Ý muốn và Lời của Ngài cần phải được tin cậy và vâng theo một khi chúng được đề ra; mọi sự cần phải được thực thi chính xác y như Ngài phán dạy vậy.
2. Đức Chúa Trời cần phải được tin cậy, chớ không phải sự ngoạn mục. Đức Chúa Trời muốn con người phải tin theo Ngài vì họ yêu mến Ngài như Cha của họ, chớ không phải vì cớ những biến cố hay những việc xảy ra, cho dù chúng có ngoạn mục hay tầm thường (Êsai 43:10).
Đấng Christ sẽ thất bại ít nhất ở hai điểm nếu Ngài nhượng bộ đối với sự cám dỗ nầy.
1. Ngài sẽ thử Đức Chúa Trời lạm dụng quyền phép của Ngài. Đấng Christ sẽ đặt chính mình Ngài vào một tình thế đầy đe dọa và liều mạng sống Ngài, trông mong Đức Chúa Trời giải cứu Ngài. Hành động nầy đi ngược lại với ý muốn của Đức Chúa Trời và sử dụng không đúng những gì Đức Chúa Trời đã hứa. Hành động nầy sẽ bất chấp những gì Đức Chúa Trời thực sự mong muốn và thực sự đã phán dạy.
2. Ngài sẽ nhắm vào sự chú ý của dân sự đối với sự ngoạn mục. Sứ mệnh của Đấng Christ là phải đưa sự chú ý của dân sự vào đức tin nơi Đức Chúa Trời — đặc biệt, nhu cần của họ về Đức Chúa Trời và Vương quốc đời đời của Ngài (xem Nghiên Cứu #3 — Mathiơ 19:23-24).
"Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời" (Mác 11:22).
"Chúng thưa rằng: Chúng tôi phải làm chi cho được làm công việc Đức Chúa Trời? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Các ngươi tin Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến, ấy đó là công việc Ngài" (Giăng 6:28-29).
"Hãy vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời, là sự mà con đã được gọi đến, và vì đó mà con đã làm chứng tốt lành trước mặt nhiều người chứng kiến" (I Timôthê 6:12).
"nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa. Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín" (Hêbơrơ 10:22-23).
"Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài" (Hêbơrơ 11:6).
"Vả, nầy là điều răn của Ngài: là chúng ta phải tin đến danh Con Ngài, tức là Đức Chúa Jêsus Christ, và chúng ta phải yêu mến lẫn nhau như Ngài đã truyền dạy ta" (1 Giăng 3:23).
Tư tưởng 1. Những người tin Chúa thường bị cám dỗ ý như Đấng Christ vậy (đối chiếu I Côrinhtô 10:13).
1) Họ bị cám dỗ để thử Đức Chúa Trời, để nắm lấy một lời hứa nào đó trong Kinh thánh rồi lấy nó ra khỏi văn mạch, lạm dụng và ứng dụng sai lời hứa ấy. Động lực đôi khi rất tốt, vì người tin Chúa ao ước làm những việc lớn cho Đức Chúa Trời. Những gì xảy ra, ấy là người ấy nắm lấy một lời hứa quan trọng nào đó của Đức Chúa Trời rồi phát động, nhưng lời hứa bị lạm dụng và ứng dụng không đúng. Những việc lớn không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho người tin Chúa. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những lời hứa long trọng. Nhưng chúng ta phải ở gần với Đức Chúa Trời (suy gẫm và cầu nguyện) rồi trụ lại trong Lời của Ngài để hiểu cho đúng đắn mọi lời hứa của Ngài. Chỉ điều nầy thôi sẽ giữ chúng ta không lạm dụng và ứng dụng sai các lời hứa của Ngài.
2) Hướng sự chú ý của dân sự vào sự ngoạn mục, chớ không hướng vào Đức Chúa Trời và có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đáng được tin cậy, chớ không phải sự ngoạn mục. Đức Chúa Trời đáng phải là tâm điểm và trọng tâm của mọi sự đã được nói và được làm ra, chớ không phải sự ngoạn mục.
Tư tưởng 2. Ba việc tuyệt đối là quan trọng để thắng hơn sự cám dỗ nầy.
1) Sống với Đức Chúa Trời từng phút một — sống chơn thật thường xuyên tương giao với Ngài.
2) Sống theo Lời của Đức Chúa Trời — thực sự nhìn biết các lời hứa của Ngài để sử dụng chúng y như chúng là phương tiện để được sử dụng vậy (đối chiếu II Côrinhtô 2:12; II Timôthê 2:15; II Timôthê 3:16; đối chiếu Công Vụ các Sứ Đồ 17:11; đối chiếu Thi thiên 1:2…).
3) Quyền phép của Satan là quyền phép có hạn. Hắn chỉ có quyền cám dỗ; hắn không thể buộc một người phải phạm tội. Hắn không thể đẩy Đấng Christ rơi xuống nóc đền thờ. Hắn không thể đẩy một người vào trong tội lỗi. Tư dục hay ham muốn ra từ bên trong con người. Sự cám dỗ của Satan chỉ có thể khuấy đảo và làm dấy lên sự ham muốn và tư dục mà thôi. Satan không thể khiến cho một người phải thèm khát. Vì lẽ đó, nếu một người đang sống trong mối tương giao với Đức Chúa Trời và sống theo Lời của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ bị dức dấy vâng theo Đức Chúa Trời nhiều hơn là người bị khuấy đảo hàng phục trước sự cám dỗ. (xem bố cục — Giacơ 1:13-18 và chú thích — Giacơ 1:13-18. Xem chú thích — Giacơ 4:1-6).
Tư tưởng 3. Đền thờ hay nhà thờ phượng là một nơi đặc biệt ma quỉ chú trọng đến. Đây là địa điểm mà người ta nhắm vào sự thờ lạy Đức Chúa Trời. Vì vậy, tạo ra một sự lãng trí, kiêu ngạo, hay sự dạy giả dối — bất cứ điều chi gièm pha và dẫn người ta xa khỏi Đức Chúa Trời — đánh bại mục đích của Đức Chúa Trời và hủy hoại đời sống của dân sự, có khi một cách đời đời nữa.
Tư tưởng 4. Satan biết rõ Kinh thánh và rất giỏi. Nhìn biết Kinh thánh và không phải nhận biết Đức Chúa Trời là điều rất khả thi. Thậm chí nhận biết Kinh thánh và đứng nghịch lại Đức Chúa Trời, lạm dụng và sử dụng sai Lời của Ngài vẫn là điều khả thi.
4. (4:8-10) Đức Chúa Jêsus Christ, Sự cám dỗ: lần cám dỗ thứ ba của Đấng Christ là để chứng minh thần tánh của Ngài bởi sự thỏa hiệp. Ma quỉ đã cám dỗ Đấng Christ phải chứng minh Ngài là Con của Đức Chúa Trời bằng cách thỏa hiệp.
1. Đấng Christ bị cám dỗ phải thỏa hiệp chức vụ của Ngài và sứ mệnh của Ngài. Ngài bị cám dỗ phải bảo đảm cho thế gian mà không cần thập tự giá, không cần phải trả giá. Ngài bị cám dỗ phải chọn cách khác thay vì cách của Đức Chúa Trời — để đạt mục đích của Ngài bằng con đường khác. Ngài bị cám dỗ phải sử dụng phương tiện sai quấy để đạt tới cứu cách tối thượng trong vũ trụ. Nếu Ngài sấp mình xuống và thờ lạy ma quỉ, các nước trần gian và lòng trung thành của con người sẽ thuộc về Ngài.
2. Đấng Christ bị cám dỗ phải thỏa hiệp đời sống của Ngài và lòng trung thành của Ngài. Ngài bị cám dỗ phải chuyển lòng trung thành đi. Ngài được hiến cho cả thế gian và là lãnh đạo tối cao của thế gian nếu Ngài chỉ làm một việc: thờ lạy ma quỉ. Điều nầy muốn nói tới việc gì? Nó có ý nói rằng Đấng Christ bị cám dỗ để cho thế gian (kể cả con người) cứ mãi hư mất và dãy chết với chẳng có hy vọng gì về sự sống đời đời với Đức Chúa Trời. Đây là một sự cám dỗ cứ để cho thế gian cứ tiếp tục như nó vốn hiện có, và để cho ma quỉ cứ tiếp tục công việc của hắn trong thế gian để làm hỏng đi chương trình của Đức Chúa Trời dành cho thế gian.
Có hai việc sai lầm với phần lý luận ở đàng sau sự cám dỗ nầy.
1.Thỏa hiệp với ma quỉ và thế gian không phải là cách của Đức Chúa Trời. Cách của Đức Chúa Trời là bắt phục sự hư nát và sự chết của đời nầy.
2.Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới đáng được thờ lạy, chớ không phải ma quỉ cũng không phải thế gian và quyền lực của nó.
Nếu Đấng Christ nhượng bộ trước sự cám dỗ nầy, Ngài sẽ thất bại ít nhất ở hai điểm.
1.Ngài sẽ nắm lấy các nước thuộc đời nầy qua sự thỏa hiệp, chớ không phải bởi tay của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hứa với Ngài về thế gian và lòng trung thành của cư dân nó, nhưng việc ấy phải đến bởi con đường thập tự giá. Phương thức của Đức Chúa Trời thì sâu xa hơn, vì các nước mà Đức Chúa Trời đã hứa để thuộc về cõi đời đời (xem Nghiên Cứu #3 — Mathiơ 19:23-24).
2.Ngài đã hướng lòng trung thành của Ngài từ Đức Chúa Trời sang ma quỉ. Ngài đã quên Đức Chúa Trời để lấy đời nầy và Satan là vua chúa của nó (Êphêsô 2:2; xem Nghiên Cứu #1 — Khải huyền 12:9).
"Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?" (Mathiơ 16:26).
"Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào" (Rôma 12:2).
"Hãy cùng ta chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Jêsus Christ. Khi một người đi ra trận, thì chẳng còn lấy việc đời lụy mình, làm vậy đặng đẹp lòng kẻ chiêu mộ mình" (II Timôthê 2:3-4).
"Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra" (I Giăng 2:15-16).
"Vả, ân điển Đức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi. Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính và tình dục thế gian, phải sống ở đời nầy theo tiết độ, công bình, nhân đức" (Tít 2:11-12).
Tư tưởng 1. Hãy chú ý các bài học quan trọng ở điểm nầy.
1) Một tín đồ thường bị cám dỗ phải thỏa hiệp cả hai: đời sống cùng việc làm hay chức vụ của mình. Satan, kẻ cám dỗ, hắn muốn một người phải sống duy nhứt cho thế gian, không cần biết đến linh hồn mình đã được định cho sống đời đời. Hắn muốn sự chú ý, năng lực và nổ lực của một người. Hắn muốn một người chỉ xu hướng về thế gian nầy và chỉ đời sống nầy mà thôi.
2) Satan lừa đảo và dối trá. Các nước thuộc đời nầy chỉ là tạm thời — chỉ một vài năm ngắn ngủi. Đời sống của một người và sự sống của thế gian tự nó là ngắn ngủi, thực là ngắn ngủi. Mọi sự trong đó đều kết thúc cả.
3) Những người tin Chúa không thể nhận lãnh từ Satan những gì Đức Chúa Trời đã hứa với họ, nghĩa là, sự sống đời đời (xem chú thích — Êphêsô 1:3. Đối chiếu II Phierơ 1:4; II Phierơ 3:8-15).
4) Sự cám dỗ phải bị kháng cự ngay lập tức. Chúa Jêsus không chần chứ một phút trong việc kháng cự sự cám dỗ.
Tư tưởng 2. Khi một người tin Chúa bị cám dỗ hết lúc nầy tới lúc khác, người ấy đối mặt với hai mối nguy hiểm.
1) Sự ngã lòng. Số lượng và sức mạnh của những lần cám dỗ có thể làm ngã lòng một người. Không chống nổi trước sự cám dỗ và phạm tội có thể làm cho một người phải ngã lòng. Thực vậy, sự sa ngã của một người càng lớn, người càng trở nên bất xứng và tự cáo giác. Tự thương hại, xấu hổ, tội lỗi, và thất bại luôn luôn làm ngã lòng ở một cấp độ nào đó. (Đối chiếu I Phierơ 4:12-13).
2) Cả tin. Khi một tín đồ đắc thắng sự cám dỗ, người ấy tấn tới và trở nên mạnh mẽ hơn và trưởng thành hơn và kiếm được độ tin cậy càng hơn. Tuy nhiên, có sự nguy hiểm trong vấn đề nầy. Người ấy có thể bắt đầu cảm thấy mạnh mẽ và trưởng thành đủ để bắt phục sự cám dỗ. Người ấy có thể cảm thấy mình cao kỳ hơn sự cám dỗ. Những cảm xúc như thế có thể dẫn tới hai sai lầm lớn.
a) Nó có thể dẫn tới cách ứng xử và niềm tin hào phóng, rộng rãi. Trước đó, một người bắt đầu suy nghĩ mọi sự người làm đều đúng đắn cả. Người ấy cảm thấy trưởng thành và mạnh mẽ đến nỗi người cảm thấy mình có thể bắt phục bất kỳ một sự cám dỗ nào. Người ấy cảm thấy những gì người tin và làm đều là đúng đắn cả. Thậm chí người ấy rút Kinh thánh ra khỏi văn mạch để xưng công bình cho cách xử sự bất kỉnh và hào phóng của mình.
b) Nó có thể dẫn tới cách xử sự và niềm tin dè dặt, hẹp hòi. Trước đó, một người có thể bắt đầu cảm thấy rằng mình trưởng thành và mạnh mẽ đến nỗi người có thể bắt phục sự cám dỗ bằng sức riêng của mình, những gì người tin và làm cũng được xem là đúng đắn. Người sống bởi những luật lệ nghiêm ngặt, xét đoán bản thân và mọi người khác bằng chính các luật lệ đó. Người ấy cũng xưng công bình thái độ tin mù quáng và cách xử sự với đầu óc hẹp hòi bởi Kinh thánh.
5. (4:11) Sự cám dỗ, Đắc thắng: có sự đắc thắng. Đấng Christ đã kháng cự sự cám dỗ bằng phương thức duy nhứt mà Ngài có thể: bằng cách làm theo chính xác những gì Lời Đức Chúa Trời đã phán dạy. Ngài chỉ vâng theo Đức Chúa Trời; vì vậy, Ngài không hề tẻ tách ra khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời. Ma quỉ đã bị đánh bại, sự cám dỗ và tội lỗi đã bị bắt phục. Hãy chú ý ma quỉ đã bỏ Chúa Jêsus lại một mình trong một lúc, một số thiên sứ đã đến và phục sự Ngài.
Tư tưởng 1. Ma quỉ là một kẻ thù đã bị bắt phục.
"Ngài đã truất bỏ các quyền cai trị cùng các thế lực, dùng thập tự giá chiến thắng chúng nó, và nộp ra tỏ tường giữa thiên hạ" (Côlôse 2:15).
"Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là ma quỉ" (Hêbơrơ 2:14).
Tư tưởng 2. Luôn luôn có một sự tránh thoát khỏi sự cám dỗ. Đức Chúa Trời biết cách thức giải thoát người tin kính ra khỏi sự cám dỗ.
"Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được" (I Côrinhtô 10:13).
"Chúa biết cứu chữa những người tin kính khỏi cơn cám dỗ, và hành phạt kẻ không công bình, cầm chúng nó lại để chờ ngày phán xét" (II Phierơ 2:9).
Tư tưởng 3. Khi sự cám dỗ bị kháng cự, ma quỉ lánh đi và người tin Chúa được giải cứu trong một thời gian.
"Vậy hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả ma quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em" (Giacơ 4:7; đối chiếu Giacơ 4:11).